Định vị và nâng tầm du lịch di sản
Di sản là “mỏ kim cương” vô tận cho Du lịch Việt Nam cần cất cánh an toàn.
Những du khách mà tôi có dịp hầu chuyện, sau khi đã chạm vào di sản tàu Bình Chuẩn của vua tàu thuỷ Bạch Thái Bưởi mà tôi đã hồi sinh sau đúng 100 năm hạ thuỷ, mọi người Việt đều xúc động với câu chuyện di sản và tự hào dân tộc. Du khách nước ngoài trải nghiệm ngủ đêm trên du thuyền di sản cảm được văn hoá, lịch sử, mỹ thuật, con người Việt Nam trên du thuyền di sản khám phá kỳ quan, cái đó chỉ có ở Việt Nam.
Thật vậy di sản là “mỏ kim cương” đáng để Việt Nam nâng tầm, lan tỏa, tôn vinh, định vị thương hiệu du lịch quốc gia. Nhân chuyện chủ đề “luồng xanh” và “cát cánh”, thì cần đôi cánh quốc tế và khách quốc nội. Hai nguồn khách không thể thay thế được nhau và cần phát triển bền vững như đôi cánh.
Để nói một cách hình ảnh về chuyến bay như cỗ máy du lịch của Việt Nam chúng, từ lúc lôi máy bay ra đường băng, chạy taxing, cất cánh. Chúng ta mới ở đang được xe kéo ra đường băng phía trước còn là cuộc khủng hoẳng kép dịch bệnh Covid và chiến tranh Nga – Ucraina chưa có hồi kết.
Chúng ta mở cửa du lịch từ 15 tháng 3 có nguy cơ không ai đến là rất cao. Chúng ta bay chưa biết đi đâu, đến điểm đến nào, ai là khách du lịch của Việt Nam chúng ta. Thời hoàng kim, DLVN chúng ta đón 18 triệu khách quốc tế và 85 triệu khách quốc tế trước Covid, so với các nước DL VN mới bắt đầu.
Còn nhiều rào cản trên đường băng thì chưa cất cánh được. Giờ là lúc xây lại bền vững phá bỏ mọi rào cản để phát triển du lịch bền vững như nghành kinh tế như quá phụ thuộc vào một nguồn khách, thể chế chính sách, chất lượng nguồn nhân lực, sản phẩm du lịch và xúc tiến. Trong đó có xác định điểm mạnh nhất nhất, tài nguyên du lịch và khách hàng tiềm năng thích gì từ chúng ta và chúng ta khác biệt độc đáo như thế nào so với đối thủ cạnh tranh trong khu vực và định vị thương hiệu du lịch quốc gia và trải nghiệm du lịch gây thương nhớ khi nghĩ đến du lịch Việt Nam là gì?
Hiểu về di sản
Di sản thiên nhiên – đường thủy, cảnh quan, rừng cây, đầm lầy, vùng cao, động vật hoang dã bản địa, côn trùng, thực vật, cây cối, chim và động vật.
Di sản hữu hình – các di tích lịch sử, tòa nhà, tượng đài, đèn biển, hiện vật trong viện bảo tàng và kho lưu trữ.
Di sản phi vật thể – phong tục tập quán, thể thao, âm nhạc, khiêu vũ, văn hóa dân gian, hàng thủ công mỹ nghệ, kỹ năng và kiến thức của chúng ta.
Di sản vật thể, phi vật thể và thiên nhiên của chúng ta và tất cả các thần thoại, truyền thuyết, truyền thống và ký ức liên quan cung cấp cho chúng ta một ngôn ngữ chung và cái nhìn sâu sắc giúp người Việt Nam hiểu sâu sắc hơn về nhau và thể hiện bản thân theo một cách độc đáo ra bên ngoài thế giới.
Theo định nghĩa của Tổ chức Bảo tồn Di sản Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ, “Du lịch di sản văn hóa là du lịch để trải nghiệm những địa điểm, hiện vật và hoạt động thể hiện chân thực những câu chuyện và con người xưa và nay. Nó bao gồm văn hóa, lịch sử và tài nguyên thiên nhiên.”
Di sản thế giới tại Việt Nam đã được UNESCO công nhận có đủ cả ba loại hình: di sản thiên nhiên thế giới, di sản văn hóa thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới.
Trong hệ thống các danh hiệu của UNESCO, di sản thế giới là danh hiệu danh giá nhất và lâu đời nhất. Du lịch ở nước ta ngày càng phát triển và thu hút khách tham quan trong và ngoài nước. Đặc biệt là những khu du lịch được UNESCO công nhận.
Di sản thiên nhiên thế giới
1. Vịnh Hạ Long
2. Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng
3. Cao nguyên đá Đồng Văn
Di sản văn hóa vật thể thế giới
4. Quần thể di tích Cố đô Huế
5. Phố cổ Hội An
6. Thánh địa Mỹ Sơn
7. Hoàng thành Thăng Long
8. Thành Nhà Hồ
Di sản văn hóa phi vật thể
9. Nhã nhạc cung đình Huế
11. Dân ca Quan họ
12. Ca trù
13. Hội Gióng
14. Hát xoan Phú Thọ
15. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
16. Đờn ca tài tử
17. Ví giặm Nghệ Tĩnh
Di sản tư liệu thế giới
18. Mộc bản triều Nguyễn
19. Bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám
20. Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm
21. Châu bản triều Nguyễn
Di sản văn hóa hỗn hợp
22. Quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình
Điểm mạnh nhất để định vị thương hiệu du lịch quốc gia
Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển du lịch so với các nước khác trong khu vực. Đặc biệt nổi trội phải kể đến 4 tài nguyên: thiên nhiên, văn hóa, ẩm thực và con người. Tuy nhiên, những tiềm năng, tài nguyên đó chưa được phát huy xứng tầm. Bởi lâu nay, chúng ta cứ loay hoay trong việc chọn điểm mạnh nhất để xây dựng sản phẩm, xúc tiến, quảng bá.
Song, lại chưa dũng cảm chọn ra được tiềm năng mạnh nhất để xây dựng thành thương hiệu du lịch quốc gia, để cứ nhắc đến Việt Nam du khách nghĩ ngay đến sản phẩm ấy.Theo nhiều năm kinh nghiệm làm du lịch của tôi, bằng tình yêu với du lịch và sự hiểu biết về đất nước mình, Việt Nam nên định vị thương hiệu quốc gia là điểm đến di sản.
Định vị thương hiệu quốc gia là điểm đến di sản
Ở Việt Nam, bất cứ vùng miền, địa phương nào cũng có nhiều di sản vật thể hoặc phi vật thể, không lớn thì nhỏ. Việt Nam hiện có hơn 40.000 thắng cảnh. Trong đó có hơn 3.000 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 5.000 di tích xếp hạng cấp tỉnh.
Ngoài ra, cả nước có 117 bảo tàng. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới có tới 39 di sản được UNESCO công nhận. Trong đó có 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu, 9 khu dự trữ sinh quyển thế giới và 3 công viên địa chất toàn cầu.
Đây là tài nguyên du lịch vô cùng quý giá, có sức hấp dẫn mạnh mẽ với du khách trong và ngoài nước. Minh chứng là 2 năm liên tiếp 2019 và 2020, Tổ chức giải thưởng du lịch thế giới (World Travel Awards- WTA) vinh danh Việt Nam là “Điểm đến di sản hàng đầu thế giới”.
Hiếm có quốc gia nào sở hữu số lượng di sản khổng lồ như vậy và chính những di sản vật thể và phi vật đó đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến thu hút đông đảo du khách quốc tế.
Nếu như trước đây, thế giới biết đến Việt Nam là quốc gia anh hùng trong chiến tranh thì nay các di sản như: Vịnh Hạ Long, Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, đô thị cổ Hội An, cố đô Huế… chính là những “thỏi nam châm” thu hút du khách quốc tế, đưa Việt Nam trở thành điểm đến du lịch di sản hấp dẫn hàng đầu thế giới.
Có thể khẳng định, di sản là “mỏ kim cương” vô tận, đáng để chúng ta trân quý, gìn giữ, nâng tầm, lan tỏa, tôn vinh và thể hiện trách nhiệm với di sản của đất nước.
Mặt khác, từ du lịch di sản, có thể dễ dàng kết nối du lịch mạo hiểm, khai thác các loại hình du lịch golf, nghỉ dưỡng cao cấp, sang trọng, siêu sang, chăm sóc sắc đẹp, sức khỏe; đăng cai các sự kiện lớn du lịch thể thao như đua xe công thức 1, đạp xe, marathon…
Khi chọn di sản để định vị thương hiệu, cần dồn lực làm nổi “mỏ kim cương” di sản lên tầm cao mới. Để nhìn vào những di sản trong không gian rộng mở, với sự tinh khiết, kỳ diệu của màu trời, màu nước thật lung linh… du khách sẽ phải thốt lên: “Đẹp quá! Ở đâu đấy? Nhất định phải đến đó”.
Khách du lịch giờ đây rất mẫn cảm với thật- giả, được- mất, vui- buồn nên tuyệt đối không được để họ cảm thấy bị lừa gạt, bị tổn thương. Phải tôn trọng, chăm chút và luôn coi khách hàng là trung tâm, vì họ, thỏa mãn họ.
Không “ăn mày di sản”
Chọn di sản để xây dựng thành thương hiệu du lịch quốc gia nhưng phải sáng tạo, không “ăn mày di sản” hay “ăn mày dĩ vãng”. Càng không phải thay vì làm tăng giá trị di sản làm lại phá đi. Phải làm sao để khách du lịch khắp nơi trên thế giới được chiêm ngưỡng di sản, thưởng thức giá trị vốn có.
Đơn cử, di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) với vịnh Lan Hạ (Hải Phòng) thông nhau nhưng bao nhiêu năm nay, cùng 1 chuyến tàu, khách vẫn chỉ đi được một vịnh. Muốn đi vịnh kia phải là một chuyến tàu khác, bến khác, tuyến khác.
Đến giờ, tôi vẫn không hiểu, sao lại có cảnh “ngăn sông cấm chợ này”? Chẳng nhẽ Quảng Ninh với Hải Phòng nói chuyện với nhau khó đến thế, những xung đột lợi ích không thể giải quyết khiến không thể thông thương, thông bến? Trong khi ai cũng hiểu, nếu liên kết, cùng khai thác, thống nhất các tiêu chí, quy chuẩn thì sẽ tạo ra được các sản phẩm đa dạng hơn, hấp dẫn hơn. Và việc này có thể làm ngay, chỉ cần vài chữ ký.
Hay như vẫn một bản nhạc, nghe ở Phú Quốc, Nha Trang khác, nghe ở Đà Lạt khác, nghe ở Sa Pa lại khác nữa; nghe khi bình minh khác mà nghe lúc hoàng hôn khác. Cái chính là người làm du lịch phải chạm được vào cảm xúc của khách, mang tới cho khách những cảm nhận, trải nghiệm mới. Khung cảnh tại điểm đến, âm nhạc và thái độ của nhân viên phục vụ là những yếu tố có thể gây thương nhớ, mang tới những trải nghiệm đắt giá cho du khách.
Có những thời điểm, tour du thuyền Emperor ngắm hoàng hôn trên vịnh Nha Trang của chúng tôi phải đặt vài tháng mới có chỗ. Khách du lịch được trải nghiệm những dịch vụ cao cấp trên du thuyền độc bản và như được ngược dòng lịch sử về với thời vua Bảo Đại những năm 30 của thế kỷ trước, thưởng ngoạn thiên đường Nha Trang, thành phố từ biển Đông trong nền nhạc sống (violon và guitar), thưởng thức bữa tối sang trọng với các món hảo hạng…. Chỉ với 4 tiếng, khách du lịch phải trả 120 USD, nhưng họ cảm thấy thực sự đáng giá.
Ở Việt Nam, tôi thấy có nhiều cái rất đáng tiếc, rất muốn làm mà không sao làm được. Tất cả các thành phố nổi tiếng trên thế giới: Venice (Ý), St. Peterburg (Nga), London (Anh), Paris (Pháp, Amsterdam (Hà Lan), Thượng Hải, Phượng Hoàng (Trung Quốc), Vienna (Áo), Bangkok (Thái Lan), Bruges (Bỉ), Stockholm (Thụy Điển)… đều lấy sông, hồ làm trung tâm, riêng Việt Nam gần như quay lưng lại với sông, hồ.
Tôi luôn mơ ước cảnh nhộn nhịp trên bến dưới thuyền ở sông Hồng, từ Hà Nội đi Hạ Long để nghe truyện rồng hay đi Hưng Yên- Thái Bình, ngược lên Phú Thọ…; trên hành trình ấy ngắm những cây cầu vắt qua 2 thế kỷ như: Long Biên, Thăng Long; nghe những câu chuyện dời đô nghìn năm trước, nhớ về cội nguồn từ thủa các vua Hùng… Hay những nơi thật êm đềm, sang trọng ở Hồ Tây, ngắm hoàng hôn rơi theo tiếng chuông chùa Trấn Vũ.
Tôi chờ mãi chưa thấy Hà Nội có chủ trương kêu gọi đầu tư, xây dựng những bến du thuyền, nơi ngắm cảnh ở Hồ Tây. Nếu có, tôi sẽ là người đầu tiên đầu tư vào Hồ Tây.
Chuyển đổi số là tất yếu
Để “chắp cánh” cho một điểm đến du lịch di sản trong bối cảnh “sóng thần” Covid-19 đó là chuyển đổi số. Chuyển đổi số là tất yếu. Chắc chắn, 100 con đường phía trước không con đường nào tránh được chuyển đổi số. Công nghệ điện toán đám mây sẽ đồng hành với Du lịch Việt Nam trong tương lai. Vì thế, chuyển đổi số càng được thực hiện sớm càng tốt.
Đại dịch Covid-19 gây ra thảm họa trên toàn thế giới nhưng nó cũng cho thấy nhiều tầm nhìn, nhiều giá trị cốt lõi, sự thích nghi của doanh nghiệp, của nền kinh tế trước những biến cố. Chuyển đổi số chính là một giải pháp để chung sống và vượt qua đại dịch. Thời điểm này, không giống như từ trước đến nay, ai “ăn cắp” sản phẩm, “ăn cắp” thương hiệu sẽ “chết” ngay.
Những thứ không phải của mình, không có dấu ấn, không hiểu gì về bản thân sẽ không thể tồn tại. Chính vì thế, đại dịch Covid-19 làm cho ngành Du lịch trải qua những ngày đau đớn nhưng cũng là cuộc thanh lọc chưa từng có. Những doanh nghiệp tồn tại được đều là những doanh nghiệp có nền tảng, có tầm nhìn, có tích lũy tư bản.
Ngay từ năm 2004, khi bắt đầu thành lập công ty, chúng tôi đã phải cố gắng để ứng dụng công nghệ thông tin phát triển, kinh doanh trên nền tảng số, thương mại điện tử, số hóa dữ liệu, đầu tư trang web…Từ đó, chúng tôi có dòng tiền nhanh hơn, biết ngay là khách thích gì, đi xe gì, yêu thích nhãn hiệu gì, phàn nàn gì, muốn gì…
Tất cả đều nhờ công nghệ thực tế ảo, có quan hệ với khu vực khách đến, biết được khách tìm kiếm gì nhất. Quan trọng nhất là kết hợp với việc điều tra, nghiên cứu thị trường thực tế để tạo được các data, big data về dữ liệu khách du lịch, tâm lý của khách, các hãng lữ hành gửi khách cho Việt Nam… Điều này vô cùng quan trọng trong kinh doanh.
Việc chuyển đổi số cần được thực hiện càng nhanh càng tốt, từ đó quản lý, quản trị công việc kinh doanh, khách hàng. Các báo cáo phải phục vụ doanh nghiệp chứ không phải chỉ doanh nghiệp phục vụ cơ quan quản lý nhà nước.
Khi có đủ dữ liệu khách có thể dễ dàng phân tích các thị trường khách: khách châu Âu thích tìm hiểu gì, thích ở đâu, thích ăn món nào nhất…; khách châu Á thích mua gì, thích chơi ở đâu, đến vùng khí hậu như thế nào…? Từ tất cả những dữ liệu đó, cơ quan quản lý nhà nước sẽ định hướng, hướng dẫn doanh nghiệp chuyển đổi số nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Học cách quảng bá du lịch của Thái Lan
Thưa ông, hẳn công tác quảng bá, xúc tiến cũng quan trọng không kém để thương hiệu du lịch quốc gia lan tỏa rộng khắp?
Đúng vậy. Ngoài tập trung xây dựng sản phẩm du lịch di sản- văn hóa, quảng bá cho thương hiệu quốc gia cũng vô cùng quan trọng. Mỗi địa phương phải tìm ra được sự độc đáo của tỉnh, thành mình để xây dựng sản phẩm du lịch đặc trưng.
Có thể đến Hà Nội giữa 36 phố phường thưởng thức những món ngon, đi làng cổ Đường Lâm nghe câu chuyện xứ Đoài mây trắng. Đến Hội An, bên bờ sông Hoài ngắm nhìn những căn nhà cổ nở đầy hoa giấy, nơi có biết bao tâm tư, tình cảm, điệu bài chòi của người dân nơi đây, nhớ về thương cảng xưa sầm uất… Chúng ta có thể ây dựng những sản phẩm du lịch triệu USD, tại sao không? Nhưng muốn thương hiệu đó được nhiều người biết đến, ghi sâu vào tâm trí của khách, việc quảng bá, xúc tiến vô cùng quan trọng.
Người làm du lịch phải có nghệ thuật bán hàng tốt, hướng dẫn viên phải hiểu về điểm đến của mình, truyền tải một cách hấp dẫn các thông điệp của điểm đến. Điều này chúng ta phải học Thái Lan. Họ làm rất tốt. Họ tôn vinh khách hàng nhưng thực ra là họ đang tôn vinh họ.
Chẳng hạn, chiến dịch Discover Thainess, quảng bá về lối sống và văn hóa của người Thái. Tổng cục Du lịch Thái Lan (TAT) tổ chức cuộc thi “One and Only” (một lần và duy nhất) nhằm khám phá và đưa lại những trải nghiệm về tất cả những gì gọi là “Thainess”, nghĩa là những gì mang đậm chất Thái và chỉ có ở Thái Lan. Tham gia cuộc thi, du khách sẽ được khám phá Thái Lan qua: Muay Thái, điệu nhảy truyền thống Thái, ẩm thực Thái, làm vòng hoa kiểu Thái và nói tiếng Thái.
Trước đó, Tổng cục Du lịch Thái Lan đã rất thành công với chiến dịch “Tôi ghét Thái Lan” (I hate Thailand) – một chiến dịch quảng bá du lịch Thái cực kì ấn tượng. Trong suốt chiến dịch, TAT cho sản xuất 1 video, đăng tải và lan truyền video đó dưới hình thức ẩn danh, điều này khiến công chúng ngỡ như đoạn video quảng cáo là của một cá nhân nào đó ghi lại.
Nội dung video nói về một du khách nước ngoài tên James đến Thái Lan du lịch lần đầu tiên và dự định ở lại đó một tuần. Mọi chuyện bắt đầu trở nên tồi tệ khi anh bị mất túi, trong đó có toàn bộ giấy tờ, điện thoại, tiền mặt… James bắt đầu trở nên bực tức, anh đi lang thang, chửi thề, và nói rằng anh ghét Thái Lan, tất cả những gì Thái Lan để lại cho anh lúc này chỉ là vài đồng xu lẻ. Thời khắc James như bế tắc ở Thái cũng là lúc anh nhận được sự giúp đỡ của người dân địa phương. Họ chia sẻ với anh đồ ăn, chỗ ngủ.
Họ dẫn dắt anh tham gia vào những hoạt động văn hóa địa phương một cách rất tự nhiên và hiếu khách. Một ngày, họ tìm thấy túi của anh. Nó không bị đánh cắp bởi bất kì ai, một con khỉ đã đánh cắp nó. Chính tình cảm và sự tốt bụng của người dân Thái Lan đã khiến James cảm phục và yêu mến, anh quyết định ở lại Thái Lan thêm 2 năm nữa và nói rằng: “Đây là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tôi ở lại Thái Lan”…
Việt Nam từng được Tổ chức Du lịch thế giới bình chọn là Điểm đến di sản hàng đầu thế giới năm 2020. Đây là một lợi thế của đất nước ta. Nếu thực sự coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, phải có sự lựa chọn mang tính sống còn, phải có tầm nhìn và hành động cụ thể chứ không phải chỉ nói hay.
Việc lựa chọn số lượng hay chất lượng, có thể là lựa chọn thương đau nhưng phải chọn. Lựa chọn thế nào thì số phận thế ấy. Du lịch Việt Nam muốn trở thành gì? Một điểm đến du lịch sang trọng, có giá trị, bền vững hay là điểm đến đại trà, phát triển nóng, giá rẻ…? Cái này, chỉ có chúng ta mới quyết định được.
Để quảng bá rộng khắp và hiệu quả, chuyển đổi số là tất yếu, và thực hiện càng sớm càng tốt. Từ đó giúp quản lý, quảng bá, xúc tiến đầu tư vào du lịch di sản và du lịch nói chung… hiệu quả hơn, trong bối cảnh khủng hoẳng Covid, chiến tranh và lạm phát.