Quản trị tài năng và văn hoá doanh nghiệp theo phong cách Vua Tàu Thuỷ Bạch Thái Bưởi
Sử dụng nhân tài và phát huy văn hoá doanh nghiệp của doanh chủ dân tộc và quý tộc Bạch Thái Bưởi dưới góc nhìn quản trị doanh nghiệp thời hiện đại.
“Một cái gương cho thương giới nước ta”. Đó là tựa đề bài viết của tác giả Thượng Chi, bút danh của nhà nho học giả Phạm Quỳnh (1892-1945), đăng trên Nam Phong Tạp Chí – số 28, từ trang 318, xuất bản tháng 12 năm 1919 tại Hà Nội, ví nhà công nghiệp Bạch Thái Bưởi (1874-1932) sánh tầm “vua bể”, “vua thép” Âu Mỹ cùng thời. Nhờ có bài báo này mà chúng ta biết cụ thể cơ ngơi hoành tráng và sự nhộn nhịp tại các các sở tàu và nhà máy đóng tàu Giang Hải Luân Thuyền Bạch Thái Công Ty hay gọi tắt là Bạch Thái Công Ty tại Hải Phòng lên tới 1000 người, chia ra nhân viên làm bàn giấy văn phòng và thợ làm dưới nhà máy đóng tàu bên bờ Sông Cấm.
Tính ra cả xứ Bắc Kỳ, Giang Hải Luân Thuyền Bạch Thái Cty có tới 1415 người làm, quản lý Tây và Ta, vận hành 25 con tàu khắp Bắc Kỳ, vừa hạ thuỷ tàu Bình Chuẩn chạy tuyến Bắc Nam ven biển, các tàu vận tốc trung bình 8 hải lý/một giờ, tổng các tàu có đầy đủ số liệu, tên tàu cụ thể phục vụ 6.643 hành khách, những người chủ chốt làm đại diện là người Việt nam ta cả như ông Lã Quý Chấn, đại diện Công Ty ở Nam Định, ông Nguyễn Văn Thịnh đại diện tại Hà Nội, ông Nguyễn Văn Phúc, chủ trì coi nhà máy tại Hải Phòng, là kiến trúc sư trưởng, thiết kế, đóng mới tàu Bình Chuẩn lừng danh, và sáng tạo nối dài các tàu.
Con người cụ là doanh chủ Việt Nam có văn hoá, có tâm yêu thương, trí tuệ, có tư tưởng và lòng bao dung. Bởi vì “nhân tài” có năng lực, có mong muốn, cam kết và phù hợp với doanh nghiệp được thoả sức vẫy vùng khi được tin tưởng trao nguyền, người tài là tài sản vốn quý nhất của doanh nghiệp là những người tài năng, có đam mê, có ý chí mạnh mẽ; muốn đứng đầu những người này thì người doanh chủ phải có tâm, tầm, tài trí, dũng, công minh, liêm chính, có tố chất lãnh đạo rất cao, có năng lực dẫn dắt rất “giỏi” và tầm nhìn xa trông rộng thu phục nhân tâm, kinh doanh chính đạo cuộc đời, ngoài lợi nhuận sự thịnh vượng tài chính còn là tinh thần dân tộc lớn lao cao cả hơn lợi nhuận.
Vẫn theo cụ Phạm Quỳnh báo Nam Phong vào thời điểm năm 1919, Bạch Thái công ty đã sở hữu 25 tàu lớn nhỏ, chạy trên khắp các sông ở Bắc Kì và Trung Kì, ngoài ra công ty còn có 20 chiếc sà lan. Mỗi năm công ty chạy khoảng 5.000 chuyến khứ hồi, 17 tuyến tàu ngược xuôi ngọn nguồn các con sông Bắc Kỳ, với 1,5 triệu lượt hành khách và 15 vạn tấn hàng hoá. Công ty của Bạch Thái Bưởi đã tạo việc làm cho 1.415 người.
Bài báo kết luận: “Chắc chắn sau này có lẽ còn nhiều người kỳ tài, kiệt xuất hơn ông nữa, nhưng hiện nay thời ông cũng đã đáng làm một cái gương chung cho cả thương giới nước ta vậy. Ông thật là làm vẻ vang cho giống nòi ta và rửa được cho ta cái tiếng rằng dân nước An Nam không có tư cách làm được sự buôn bán to. Ước gì trong nước được răm người như ông, thì cái vấn đề chấn chỉnh thương trường lo gì mà chẳng giải quyết được”.
Doanh chủ Bạch Thái Bưởi có những phẩm chất lãnh đạo kỳ tài, triết lý kinh doanh nhân bản, văn hoá doanh tự nhiên như vốn có, nghệ thuật dụng nhân như dụng mộc, tinh thần kiên tâm, kiên định và kiên cường vượt nghịch cảnh, trên hết là khát vọng độc lập, thống nhất nước nhà bằng dân quốc phú cường. Ngay thời bấy giờ, tài kinh doanh, quản trị người tài, dùng uy tín cá nhân và ảnh hưởng tầm quốc gia dân tộc, thu hút nhân tài cả Tây và Ta chia sẻ giá trị văn hoá doanh nghiệp chân thật tự nhiên, cho thấy khả năng dùng người giỏi, sức mạnh dân tộc trong cạnh tranh phi thị trường, văn hoá soi đường doanh chủ minh doanh, con người là vốn quý của doanh nghiệp và kinh doanh dựa vào con người, đồng bào mình ủng hộ sẽ thắng.
Ngày nay kinh doanh hiện đại mới chú trọng nhiều đến văn hoá doanh nghiệp, kinh doanh bền vững ESG, trải nghiệm nhân hạnh phúc, lấy khách hàng làm trung tâm để thoả mãn họ trên từng điểm chạm của trải nghiệm. Kinh doanh tử tế từ tâm, phụng sự đồng bào. Văn hoá kinh doanh có tinh thần doanh chủ văn hoá, tinh thần dân tộc, có đạo kinh doanh riêng, có bản sắc và sự tự hào doanh chủ và nhân viên.
Văn hoá doanh nghiệp có phần hữu hình, vô hình và phần giá trị chia sẻ ấy là giá trị cốt lõi, có tầm nhìn, sứ mệnh, con đường riêng khác biệt hoá để dẫn dắt doanh nghiệp ra biển lớn, cộng sự, tổ chức, đồng bào tới thành công và hạnh phúc bằng tinh thần quý tộc Việt : thành tín, đạo nghĩa và trách nhiệm. Sứ mệnh lớn nhất của doanh chủ hay đạo kinh doanh tốt đẹp đó là sứ mệnh phụng sự vị nhân sinh vì đồng bào, cạnh tranh tới thắng tư sản mại bản người Hoa có tiền và người Pháp có quyền và “dân quốc phú cường giành độc lập.”
Văn hoá doanh nghiệp cụ Bạch Thái Bưởi chính là kinh doanh tử tế, vương đạo cuộc đời doanh chủ, chú trọng trải nghiệm khách hàng nội bộ, đoàn kết nghìn người như một, văn hoá doanh nghiệp mạnh, uy tín nhân hiệu và thương hiệu tàu Bưởi, thoả mãn khách hàng bên ngoài doanh nghiệp, thậm chí vượt mong đợi như giải trí trên tàu để tạo tạo marketing truyền miệng cả nước là bí mật thành công kinh doanh cụ hồi đầu thế kỷ 20.
Khi nhận định về cụ, hội Khai Trí Tiến Đức cho rằng: Cụ là một bậc vĩ nhân đất Bắc, một bậc trượng phu nơi thương trường mà cuộc đời của cụ đáng phô bầy cho quốc dân, sự nghiệp của Cụ đáng làm gương cho các nhà buôn bán noi theo. Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố trong Hội truyền bá chữ quốc ngữ viết về Bạch Thái Bưởi trong tạp chí Đông Thanh: Bậc anh hùng kinh tế thứ nhất trong kinh tế giới nước nhà
“Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường tứ Bưởi” tuy chỉ xếp thứ 4 danh sách bốn người giàu có nhất Việt Nam vào những năm đầu của thế kỷ 20 nhưng doanh nhân Bạch Thái Bưởi lại được nhiều thế hệ người Việt ca tụng như một tấm gương khởi nghiệp thành công từ nghịch cảnh, quản trị nhiều doanh nghiệp chi nhánh mà giờ đây gọi là tập đoàn, nhờ văn hoá doan nghiệp, ý chí doanh chủ, tinh thần dân tộc của một quý tộc Việt.
Tôi cũng cũng nghiệp học quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp từ nhỏ tới lớn và rất chú trọng văn hoá doanh nghiệp ngay từ lúc khởi nghiệp, những khi tìm hiểu và nghiên cứu về đạo kinh doanh của cụ Bạch Thái Bưởi thì tôi thấy rằng ngay từ thời loạn lạc, cạnh tranh khốc liệt, bị tư sản mại bản chèn ép tư sản bản địa, cụ Bạch Thái Bưởi đã là bậc thầy về quản trị tài năng và văn hoá doanh nghiệp một cách chân thật, tự nhiên xuất chúng như bản thân uy tín thương hiệu mà quản trị hiện đại giờ đây mới nói tới.
Xây dựng bản sắc văn hoá vững mạnh, doanh nghiệp hùng mạnh. Thành viên công ty làm việc hiệu suất cao dựa vào kết quả, xây dựng môi trường làm việc hạnh phúc và phát triển hệ quản trị bền vững. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp mạnh tạo niềm tin cho khách hàng, tạo dựng đoàn kết, gắn bó đội ngũ, tạo thói quen tốt cho nhân viên, nâng cao năng xuất, chất lượng hiệu quả công việc. Duy trì và lan toản văn hoá doanh nghiệp, phát triển bền vững.
Cụ thể là văn hoá doanh nghiệp hữu hình là logo dễ nhận biết nhất là cờ vàng mỏ neo, ba sao, và khẩu hiệu “Người Ta đi tàu Ta”, “Người Việt đi tàu Việt”, nhà máy bên bờ Sông cấm, các văn phòng, biển hiệu, đồng phục, mỹ thuật tàu thuyền của 30 con tàu ngược xuôi các con sông Bắc Kỳ và đình đám là hạ thuỷ tàu Bình Chuẩn năm 1919 và cập cảng Sài Gòn năm 1920, cùng tàu Sông Giang, Việt Đăng, ba tàu chạy ven bể Đông Dương.
Văn hoá hữu hình là tinh thần tự tôn dân tộc, phụng sự đồng bào, “người Việt Nam giúp người Việt Nam”. Sứ mệnh kinh doanh Giang Hải Luân Thuyền Bạch Thái Công Ty từ sông ra biển lớn, từ Nam Định ra Hải Phòng lập mua nhà máy đóng tàu bên bờ Sông Cấm, giống ý nghĩa nhận diện thương hiệu cờ vàng, mỏ neo, ba sao tượng trưng cho người Việt chung nhau máu đỏ, da vàng, ba miền phải thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam, và độc lập khỏi Pháp, mỏ neo là nghề kinh doanh chính, vận tải thuỷ, giúp giao thương buôn bán kinh doanh vùng miền thuận lợi.
Bình Chuẩn tức bình đẳng “không trọng nông, ức thương”, nội thương và ngoại thương được thúc đẩy mạnh mẽ, “phi thương bất phú”, tiếp tục chính sách ty Bình Chuẩn từ thời nhà nho cấp tiến Đặng Huy Trứ, triều Nguyễn, để “dân quốc phú cường” (dân giầu nước mạnh) đúng như ý nghĩa sâu xa tên tàu Bình Chuẩn. Muốn vậy phải có tầng lớp quý tộc đủ mạnh khẳng định tâm tài người Việt, kêu gọi đồng bào ủng hộ, giúp sức bằng bỏ tàu Tây, Tàu, đi tàu Ta.
Tư tưởng xuyên suốt trong văn hóa kinh doanh là dân quốc phú cường giành lại độc lập; thức tỉnh mở mang dân trí, đổi mới văn hóa; đua tranh với tư bản nước ngoài, khẳng định vị thế của doanh nhân Việt Nam. Ngắn gọn có thể thấy những bài học kinh doanh của cụ như dám đi bằng đôi chân của mình, dám tận dụng thời cơ, dám tin người, dám tiếp thu tân thư, dám vận dụng tinh thần yêu nước, dám cạnh tranh đến cùng, dám sáng tạo, dám mở rộng thị trường, dám đi lại từ đầu.
Tinh thần cụ Bưởi là hiện thân của tinh thần quý tộc cao quý. Cụ ảnh hưởng của Nho giáo, ngũ thường: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, nhưng lại sớm tiếp cận văn minh Pháp. Nhưng cụ vẫn là người Việt Nam. Kinh doanh trong nghịch cảnh, vượt nghịch cảnh bằng văn hoá doanh nghiệp, trọng dụng nhân tài. Cái bài học hay là cụ Bạch Thái Bưởi kế thừa tinh hoa của văn minh nhân loại, đóng tàu Tây, phát huy tinh thần dân tộc Việt Nam ta, để làm bản sắc riêng cho doanh chủ tinh thần quý tộc Việt. Cụ được cả hai vua triều Nguyễn là Khải Định và cựu hoàng Bảo Đại ban thưởng cho cụ Bạch Thái Bưởi vì tinh thần thành tín, đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm. www.lux-cruises.com
Về doanh chủ Phạm Hà
Ông Phạm Hà là Chủ tịch kiêm CEO LuxGroup và là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực du lịch sang trọng. Ngoài lĩnh vực kinh doanh, ông còn là một người say mê sưu tập tranh, đồ cổ, viết báo về thương hiệu, kinh tế, quản trị kinh doanh và sách về di sản văn hóa, lịch sử và mỹ thuật
Hãy làm cái mình thích và thích cái mình làm
Đó là lời chia sẻ của anh Phạm Hà – CEO Lux Group xoay quanh chủ đề: “Con đường thực hiện những ước mơ” với các bạn trẻ xuất phát từ kinh nghiệm thực hiện ước mơ của anh. Tạp chí Thanh niên trân trọng giới thiệu với bạn đọc nội dung thú vị về cuộc chia sẻ này.
Phóng Viên: Anh giới thiệu đôi chút về bản thân mình? Về doanh nghiệp của mình?
Anh Phạm Hà: Tôi sinh năm 1975, trong một gia đình nghèo, đông anh em ở huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Tôi học Khoa tiếng Pháp tại Đại học Sư phạm Ngoại Ngữ (Đại học Quốc gia Hà Nội). Sau đó được cử đi học ở bên Pháp. Khi sang Pháp, tôi thấy có cái hay là mình ở quê nghèo sang, được mở mang đầu óc, tư duy. Mà con người quan trọng nhất là tư duy, đó là tài sản lớn nhất ở thế kỷ 21.
Những năm 1995 khi còn là sinh viên, tôi đã vác ba lô đi làm hướng dẫn viên du lịch rồi, lúc đấy là lúc làn sóng khách du lịch đầu tiên họ tới Việt Nam. Việt Nam mở cửa năm 1986 nhưng đến năm 1990-1995 mới có những người khách nước ngoài đến. Khi đi cùng và nói chuyện với khách nước ngoài thì tôi có được sự tự tin hơn, có cảm hứng từ câu chuyện của họ, học hỏi được phong cách và kinh nghiệm sống của người ta. Từ đó niềm tin, đam mê với nghề trong tôi cứ lớn dần lên và được khẳng định hơn. Ra trường, về nước tôi vào làm cho công ty du lịch, kinh qua các vị trí từ: hướng dẫn, bán hàng, sale, điều hành,… Sau 8 năm đi làm thuê, tôi bắt đầu khát khao tạo dựng cho mình một chân trời riêng.
Năm 2004 tôi quyết định khởi nghiệp, thành lập công ty lữ hành đầu tiên, Công ty Luxury Travel – phân khúc lữ hành sang trọng và cao cấp, nhưng chủ yếu vẫn là đi vào thị trường ngách. Lúc đầu vốn khởi nghiệp chỉ có khoảng 1000 USD, bài toán đặt ra là với 1000 đó mình sẽ có nhà để ở hoặc là mình sẽ phải mất cái nhà đó.. Nhân sự lúc đó cũng chỉ có 1 người, 1000 đô, 1 laptop, 1 văn phòng tự mình làm hết mọi công việc. Lúc đấy thị trường du lịch Việt Nam mới bắt đầu phát triển, khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam và Internet xuất hiện. Tôi tận dụng được thế mạnh của Internet để tạo ra những sản phẩm trải nghiệm tốt, phù hợp với đối tượng khách hàng cao cấp của mình. Sau đấy tôi sử dụng các công cụ website, quảng cáo như: google tác dụng trực tiếp đến khách hàng là những người dùng cuối, tạo điều kiện cho khách hàng dễ dàng hơn trong việc trả tiền. Luxury Travel là đơn vị đầu tiên dùng thương mại điện tử để khách hàng ở khắp nơi trên thế giới có thể đạt được trải nghiệm của mình qua Internet. Đấy là những thành công đầu tiên, là đơn vị tiên phong làm du lịch cao cấp và thương mại điện tử. Đó là bước đầu thành công, sau đó tôi bắt đầu phát triển nhiều hơn lượng khách cao cấp, họ đến nhiều hơn nữa, công ty có uy tín cao hơn. Năm năm gần tôi vẫn tập trung vào du lịch trải nghiệm nhưng nhiều hơn là du thuyền. Hiện tại bây giờ công ty đang có du thuyền tại Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng.
Sau 15 năm hoạt động, từ một văn phòng tại Hà Nội dần dần mở được văn phòng tại Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn, Hạ Long. Ngoài ra còn có các văn phòng đại diện tại các nước phát triển 5 ngôn ngữ tại thị trường mục tiêu của mình tiếng Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha. Ngoài lữ hành thì công ty còn có các du thuyền như Hạ Long, Nha Trang, Hải Phòng.. giải quyết việc làm cho khoảng 250 người với thu nhập ổn định. 15 năm phát triển cũng là một kỳ tích từ gần như một con số không tròn trĩnh đã tạo ra danh tiếng, uy tín hàng đầu ở Việt Nam và khu vực Châu Á.
Phóng Viên: Anh có thể chia sẻ sâu hơn với các bạn trẻ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình khởi nghiệp xuất phát từ bản thân anh?
Anh Phạm Hà: Thuận lợi với tôi có lẽ, mình là một trong những đơn vị mà vốn khởi nghiệp không nhiều trong ngành du lịch. Nhưng mình luôn có đam mê, có chút kinh nghiệm và mình học hỏi được ở những người khác, kể cả khách du lịch nước ngoài. Mặt khác, mình chọn được những người thầy tốt để học và gặp được những người bạn cùng ngành giúp đỡ.. Nhận được sự giúp đỡ của những người cùng trí hướng là những anh em trong công ty, cùng trí hướng làm dịch vụ cao cấp mang đến những trải nghiệm khác biệt cho khách hàng và chạm vào cảm xúc của họ. Khi bạn làm kinh doanh bạn phải trở thành người đầu tiên, bạn phải trở thành chuyên gia trong lĩnh vực đấy thì sẽ hiểu được khách hàng của mình là ai, họ muốn cái gì. Mình thấu hiểu khách hàng thì mình sẽ có những sản phẩm trải nghiệm phù hợp, đáp ứng gần nhất nhu cầu của khách hàng thì họ sẽ mua của bạn.
Còn khó khăn, rủi ro thì rất nhiều: Ví dụ như: có những khách hàng họ rất tốt nhưng cũng có khách hàng họ đặt qua Internet nhưng họ không trả tiền hoặc họ không đến hay có khách hàng họ lừa đảo trên Internet,… Để tránh những rủi do mình luôn dạy nhân viên những kỹ năng làm việc với khách nước ngoài, những khách hàng sang trọng dùng những ngôn từ hay cách thức mình giao tiếp văn minh, thân thiện. Phải tạo ra được một đội ngũ nhân viên hiểu biết, phải thuyết phục được những đối tác nước ngoài, khách nước ngoài đến Việt Nam bằng những trải nghiệm mà mình cung cấp cho họ sự khác biệt đáng đồng tiền bát gạo. Họ đến có người đưa đón, mình chọn những nhà hàng, khách sạn cao cấp hơn, xe cộ máy bay phải phù hợp với giờ giấc của khách hàng, đáp ứng được kỳ vọng của khách hàng vào chuyến đi tới Việt Nam.
Phóng Viên: Hiện nay còn một bộ phận thanh niên đang thiếu những ước mơ, hoài bão? theo anh nguyên nhân từ đâu?
Anh Phạm Hà: Theo tôi có nhiều nguyên nhân, thường thì các bạn gặp khó khăn sẽ cố gắng vượt lên, nỗ lực hơn…nhưng không có nghĩa các bạn có điều kiện thì lười hơn hoặc không có cái gì đó làm động lực. Các bạn trẻ dù thuận lợi hay khó khăn luôn phải biết mục đích sống và phải biết được cái mình muốn là cái gì. Điều này có ảnh hưởng khá nhiều từ giáo dục. Tôi cũng xuất phát từ quê ra thành phố học, rồi được đi học ở nước ngoài, rồi quay về lập nghiệp. Tôi có cảm giác giáo dục Việt Nam! nó nặng về lý thuyết và hơi giáo điều làm mất đi khả năng sáng tạo của con người, hơi bị áp đặt dẫn đến con người không phát huy được hết khả năng và kỹ năng của mình. Tôi thích kiểu giáo dục nó phải dân tộc, thứ 2 nó phải nhân văn, thứ 3 là phải khai phóng. Ba cái yếu tố đấy sẽ tạo ra con người là chính mình và phát huy, khai phóng được những cái tiềm ẩn trong con người bộc lộ ra bên ngoài. Có thể nó sẽ hoàn toàn ngược lại những gì mà trước giờ người ta hay nói. Nhưng rõ ràng người ta biết được, người ta lý giải được, làm được cái điều đấy và người ta được làm cái mình muốn đấy là cái hạnh phúc.
Từ cái hạnh phúc thì sẽ tìm được động lực dù nền tảng của anh thuận lợi hay khó khăn, là nông thôn hay thành phố khi mà tìm được chân lý thì sẽ thấy con đường chính đạo trong cuộc đời cho sự nghiệp của mình.
Phóng Viên: Bản thân anh và Doanh nghiệp của mình đã đồng hành, chắp cánh cho các bạn trẻ thực hiện ước mơ bằng những hoạt động thiết thực nào?
Anh Phạm Hà: Đây cũng là vấn đề quan tâm rất lớn của tôi cũng như doanh nghiệp. Thứ nhất là, tôi tạo ra môi trường làm việc tốt để các bạn trẻ trong công ty có thể phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình. Thứ hai, dành ưu tiên cho các bạn sinh viên đến thực tập, cộng tác, giúp các bạn quen với môi trường doanh nghiệp sau đó các bạn ấy thích thì có thể ở lại ngay khi ra trường, đây là một cách tạo nguồn cũng rất là thành công. Khi ở trong trường thì các bạn chỉ có kỹ năng tiếng nước ngoài, khi đi làm thì mình bổ sung cho các bạn kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, bổ sung thêm phần thái độ để hiểu biết về ngành du lịch. Mình thì cũng tổ chức các buổi tranning để đào tạo các bạn.. Thứ ba, thường xuyên dành những xuất học bổng, tặng quà cho các bạn sinh viên có hoàn cảnh khó khăn học giỏi..
Phóng Viên: Lời khuyên của anh với các bạn trẻ xuất phát từ kinh nghiệm thực hiện ước mơ của mình?
Anh Phạm Hà: Thường thì tôi thấy các bạn trẻ bây giờ hay tự thỏa mãn về bản thân, cái tôi lớn quá, quá tự tin về bản thân mình. Ví dụ như chưa ra trường các bạn đã khởi nghiệp ngay, có thể bạn giỏi về chuyên môn nhưng thường yếu về tất cả các kỹ năng quản lý, lãnh đạo.. Kết quả các bạn ấy bị thất bại. Vì vậy tôi khuyên các bạn trẻ hãy làm vì tiền trước, làm thuê đi đã sau đó tìm ra chân lý “Hãy làm cái mình thích và thích cái mình làm”. Hãy là chính mình trước, là người tốt, người tử tế rồi hãy theo đuổi đam mê. Khi mà có đam mê đủ lớn thì nó sẽ thúc đẩy chúng ta thức dậy hàng ngày, kết nối nhiều hơn cũng như trang bị thêm kỹ năng còn thiếu. Mặt khác, cuộc đời là hàm tổng của các lựa chọn, các bạn phải một chọn thầy giỏi mà học, phải chọn bạn để chơi, chọn vợ mà lấy và chọn nghiệp để mình theo, đấy là con đường để đi đến sự hạnh phúc và thành công.
Văn Quảng (thực hiện)
Tết Ất Mão 1975
Tết Ất Mão 1975
Chất liệu: Mầu dầu trên vải
Một hoạ phẩm gần 50 tuổi đời, tả thật bức tranh chợ Tết Ất Mão tại Miền Bắc Việt Nam, năm đầu tiên đón xuân độc lập. Tác phẩm độc bản không chỉ đẹp mầu sắc, đường nét, hình khối mà còn có giá trị văn hoá, di sản và lịch sử. Nhân dịp năm Tết Quý Mão, nhà sưu tập xin trân trọng giới thiệu tác phẩm độc đáo này, hiện đang treo trên du thuyền Emperor Cruises Legacy Halong
Tranh Tết, các con giáp, lễ hội truyền thống, tích truyện dân gian, truyền thuyết, nhân vật tiêu biểu của chèo, tuồng… là những chủ đề về di sản văn hoá yêu thích của họa sĩ Phạm Lực (1943), hoạ sĩ của nhân dân, sống qua hai thế kỷ. Ông vẽ được trên hầu hết các chất liệu từ giấy đến bao tải, sơn dầu tới sơn mài và các trường phái từ siêu thực đến hiện thực.
Đây là bức tranh tả thực về một góc chợ hoa Tết tại miền Bắc Việt Nam chuẩn bị cho Tết Ất Mão 1975. Hoa đào từ lâu đã là biểu tượng cho mùa xuân và Tết Miền Bắc, hoa mai vàng nở ở miền nam cũng vào dịp Tết. Đây cũng là năm Bắc Nam thống nhất, hai miền xum họp. Đi chợ Tết là một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam và sự háo hức lớn của trẻ em.
Con mèo nằm trung tâm bức tranh, mắt mở to, hùng dũng, lanh lợi, uyển chuyển theo lối vẽ mèo thường thấy của họa sĩ, phí trên chỉ dấu năm mão, phía góc tranh, họa sĩ ký năm 1975, tức năm Ất Mão, trong 12 con giáp theo văn hóa Việt nam và theo lịch mặt trăng. Chu kỳ 12 con giáp bắt đầu từ Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Ất, Dậu và cuối cùng là Hợi.
Tết diễn ra vào mùa xuân ấm áp. Bức tranh có nhiều người, già, trẻ, các bà các mẹ các con các cháu màng giỏ mang túi và mặc áo dài truyền thống, cô gái trẻ mặc áo dài, cô trung tuổi cầm ghi đông xe đạp, cành hoa đào ở sau xe, có thể là người ở xa đến chợ, cô ấy mặc áo màu đen giữu ấm, đầu đội nón lá, khoác chiếc khăn mỏ quạ, che kín mặt, chỉ hở mắt. Không nhận ra biểu cảm của nét mặt và chỉ nhìn qua ánh mắt. Trời miền bắc thường hơi lạnh dù đã lập xuân vào Tết.
Như cành đào Tết, bức tranh Tết Ất mão nào có nhiều người, các lứa tuổi, tầng lớp, già có, trẻ có cùng nhau đi chợ Tết, ai cũng vui, có lẽ vui nhất là bọn trể được đi chợ, được mua quà, quần áo mới đón xuân, thêm tuổi mới. Người lớn đều chọn được một cành đào đẹp nhất, ưng ý nhất mang về nhà chơi Tết, đón chúa Xuân.
Cô gái trẻ ở giữa khuôn hình, nhìn thẳng người xem tranh, phía dưới là em bé đang kéo áo cô gái, như năn nỉ điều gì đó, tay cô gái đang cầm một cành đào. Cô gái và em bé là trung tâm của bức tranh, trẻ trung, đầy sức sống như mùa xuân. Tuổi xuân mười tám đôi mươi với nét mặt trái xoan xinh sắn toát lên vẻ đẹp thiếu nữ Việt, nước da trắng, tóc dài và đen, không đội nón, mặc áo dài truyền thống Việt nam. Cô gái đẹp như hút mắt nhìn của người xem, với sắc đẹp nữ tính, rạng ngời, họa sĩ đã vẽ cô gái với gam mầu tươi sáng nhất trong tranh, tựợng trưng cho sức trẻ, mùa xuân và hy vọng.
Kế bên cô gái là ông già, bà cả. Người đàn ông với khuôn mặt khắc khổ, hai tay đang cầm một cành đào to, với vẻ mặt mãn nguyện. Chân đi guốc mộc, mặc áo rét trấn thủ, đầu đội mũ bông, có vẻ khá già hơn người đàn bà đứng bên chân trần.
Cạnh ông cụ, lùi lại phía sau một chút, là bà cụ với trang phục mầu đen, đội nón lá, nhưng đi chân đất, với vẻ mặt vui, đang cầm cành hoa đào ngang ngực. Nhìn từ trái qua phải, hai cái nón làm bức tranh có vòng tròn, tranh cân đối, đầy đặn, gần gụi hơn khiến ta thấy xốn sang của cuộc sống còn khó khăn sau giải phóng, nghèo mà vui năm Tết thống nhất đầu tiên của cả dân tộc.
Trước mặt ông cụ và bà cụ là cái địu em bé tầm 2 tuổi trong tư thế ngủ, dù là người dưng, ông cụ như nhìn em bé với vẻ trìu mến, yêu thương, đầu em bé để chỏm, trong tư thế ngủ trong địu sau lưng của người đi qua trước mặt, chỉ nhìn được em bé lại phía sau mà thôi. Ý nói phiên chợ Tết rất đông, năm mới già thêm một tuổi, trẻ lớn lên, như quy luật muôn đời và vận động của trời đất, xuân hạ thu đông rồi lại mùa xuân.
Về tạo hình, họa sĩ đã làm bức hình sinh động, với một người không thấy mặt, cầm một cành đào chỉ nhìn thấy địu con và hình em bé phía sau và cành đào. Bức tranh có tầng có lớp, xem từ trái qua phải. Tầng một, trung tâm phí trên là con mèo, tầng 2 là các những cành hoa đào đầy sắc mầu, có lá xanh, có nụ, hoa, xum xuê khoe sắc, những khuôn mặt theo chiều ngang thu hút mắt nhìn và nhìn từ trái xang phải với cô gái làm trung tâm.
Phí dưới là hai em bé và tầng cuối cùng là mặt đất, chân trần và gốc dép thể hiện trang phục, điều kiện hoàn cảnh kinh tế thời đó. Nét bút phóng khoáng, liền mạch, người xem có cảm giác họa sĩ vẽ liền mạch bức này trong thời gian rất ngắn.
Nền phí sau họa sĩ lấy nền mầu vàng, làm nổi bật tất cả những cảnh trí, hoa, con người phía trước, đẩy gần hơn đến người xem, để thưởng, nhìn rõ hơn, kỹ hơn, mãn nhãn hơn. Bức tranh như đầy đặn hơn, sốn sang như Tết đang đến rất gần của lòng người, đất trời. Tạo cảm xúc đặc biệt cho người xem tranh.
Tổng thể bức tranh toát nên niềm vui sự sốn sang của mùa xuân, của lòng người, đất nước thống nhất đón mùa xuân đầu tiên, cảnh sắc, cảm xúc hạnh phúc và thay đổi và khởi đầu mới, Tết của mọi người, mọi nhà, xuân của ước vọng ấm no, tự do, hạnh phúc và mùa xuân đất nước thống nhất, dân chủ và phồn vinh.
###
Ông Phạm Hà là Chủ tịch kiêm CEO Lux Group (www.luxgroup.vn) và là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực du lịch sang trọng. Ngoài lĩnh vực kinh doanh, ông còn là một người say mê sưu tập tranh, đồ cổ, viết báo về thương hiệu, kinh tế, quản trị kinh doanh và sách về di sản văn hóa, lịch sử và mỹ thuật.
7 nỗi sợ của du khách
Tôi vừa tiễn một đoàn khách Pháp 10 người, đi du thuyền Hạ Long tham quan hai ngày một đêm. Họ rất thích cảnh đẹp Vịnh Rồng nhưng chê thậm tệ môi trường bụi lửng và rác. “Hạ Long mênh mông là rác”, họ nói và cho biết không muốn trở lại lần nữa.
Khi tôi muốn hỏi rõ hơn, họ chất vấn ngược: tại sao vịnh đẹp như thế, phí vào cửa đắt mà môi trường lại ngập rác; vì sao khách phải xếp hàng rất lâu trong khi hoàn toàn có thể triển khai bán vé điện tử… Họ thậm chí nhìn ra tình trạng tham nhũng vặt ở các điểm tham quan.
Là chuyên gia du lịch và lăn lộn nhiều năm trong lĩnh vực quảng bá và thu hút khách quốc tế, chúng tôi từng phát động chiến dịch WOW Vietnam, dựa trên những thế mạnh của đất nước để đưa ra 7 lý do (đặt tên theo chữ cái đầu của từ Việt Nam) mời gọi du khách tới thăm, gồm: V – Varied landscape (Nhiều cảnh đẹp), I – Indigenous culture (Văn hoá bản địa đặc sắc), E – Exotic beaches (Bãi biển đẹp), T – Timeless charm (Quyến rũ), N – Natural heritage sites (Nhiều di sản thiên nhiên), A – Ancient cities (Các đô thị cổ), M – Memories to cherish forever (Trải nghiệm đáng nhớ).
Nhưng tôi không lạ lẫm gì với những phàn nàn như trên của đoàn khách Pháp. Tiếp xúc với rất nhiều đoàn khách quốc tế, tôi không ít lần rơi vào trạng thái nản lòng, khi biết một thực tế éo le rằng: bất chấp mọi nỗ lực quảng bá bảy lý do nên đến Việt Nam của chúng tôi, khách nước ngoài cũng truyền tai nhau về bảy nỗi sợ khi tới Việt Nam, gồm: cướp giật, trộm cắp, kẹt xe, tai nạn giao thông, thái độ phục vụ khách, nhà vệ sinh bẩn, ô nhiễm môi trường.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm mở cửa trở lại trong khu vực châu Á sau Covid-19. Tuy nhiên, du lịch Việt Nam 2022 đã không tận dụng được lợi thế dẫn đầu này. Chúng ta chỉ đón được khoảng 3,5 triệu lượt khách quốc tế, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu 5 triệu, để tạo ra tổng thu 4,5 tỷ USD. Nhiều cuộc hội thảo và không ít chuyên gia đã mổ xẻ nguyên nhân thất bại; trong đó, sự sụt giảm du khách Trung Quốc – vốn chiếm hơn 30% tỷ trọng khách quốc tế ở Việt Nam (do chính sách đóng cửa chống Covid của nước này) – được thừa nhận rộng rãi như một nguyên nhân khách quan, đặc thù của năm qua.
Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc mở cửa vào 8/1, khảo sát của các đơn vị du lịch cho thấy, Việt Nam không nằm trong top điểm đến mà người Trung Quốc muốn tới. Vì vậy, không thể dựa dẫm vào thị trường Trung Quốc, và về lâu dài, nếu không xoá bỏ được bảy nỗi sợ, không khắc phục được những yếu kém nội tại của mình, du lịch Việt Nam sẽ còn đối mặt với những thất bại khó có thể bào chữa.
Theo tôi, chính phủ đã coi trọng phát triển du lịch như một ngành kinh tế thực sự – đóng góp hơn 10% GDP – thì cần có các giải pháp hiệu quả, được giám sát triển khai một cách quyết liệt và thống nhất trong toàn ngành.
Ngoài giải pháp cởi mở hơn về chính sách visa – đã được đề cập đến nhiều lần, tôi cho rằng, có ba điểm lớn khác cần thực hiện ngay để tạo tầm nhìn và nền tảng chắc chắn cho ngành du lịch phát triển đột phá.
Thứ nhất là định vị lại thương hiệu quốc gia. Chẳng hạn, nếu xác định Việt Nam như một điểm đến di sản, thì cách làm không phải là “ăn mày”, mà sáng tạo từ di sản, cung cấp trải nghiệm du lịch cao cấp, chân thực và độc đáo. Nếu định vị mình là điểm đến thiên nhiên, thì cần cải thiện sao cho có nhiều trải nghiệm mới thú vị hơn, cơ sở hạ tầng tốt hơn, thuận tiện hơn.
Kinh nghiệm cho tôi thấy, nếu du lịch Việt Nam muốn đón khách có tiền, đi dài, ở lâu, như khách châu Âu, Australia, Mỹ – những người vốn ưa chuộng thiên nhiên và du lịch trải nghiệm – thì nên hạn chế cáp treo, giữ đảo nguyên sơ, biển sạch, rừng còn nguyên sinh, điểm đến luôn sạch, đẹp và văn minh. Sự can thiệp thô bạo vào cảnh quan, tạo ra những không gian dễ dãi, rẻ tiền không những phá hoạt tài nguyên du lịch mà còn gây định vị sai, hạ thấp thương hiệu điểm đến của Việt Nam.
Du lịch Việt không nên bỏ qua những du khách cao cấp hoặc khách lớn tuổi từ những nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc bởi do đặc thù về sức khỏe, họ sẽ thường chọn lựa du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh, chăm sóc y tế lúc nghỉ hưu. Việt Nam có thể trở thành điểm đến lý tưởng để hưởng thụ cuộc sống khi tuổi cao.
Thứ hai, đầu tư hạ tầng và ứng dụng số vào quản lý du lịch đồng bộ, từ trung ương đến địa phương. Liên bộ, nghành, cơ quan cần dùng số, và nói chuyện bằng con số, xoá bỏ ước lượng cảm tính trong các báo cáo, gây ra những ngộ nhận về thành công thực sự của du lịch. Chẳng hạn, hiệu quả của khách quốc tế phải được xem xét đầy đủ cả về lượng ngoại tệ họ mang đến, chứ không chỉ dựa vào số lượt khách (nhiều, nhưng chi tiêu không đáng kể).
Chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, vì thế, những đòi hỏi của du khách sẽ không bao giờ có giới hạn. Trong khi khách du lịch sẵn sàng chi tiền để có thể từ máy bay bước thẳng ra xe limousine về khách sạn, thì tình trạng bắt họ kiên nhẫn xếp hàng mua vé trước các điểm tham quan chắc chắn là việc quá sức chịu đựng.
Thứ ba là quản lý tốt các điểm đến bền vững: xanh sạch đẹp, không có rác và nước thải bẩn. Ngoài việc xoá bỏ thành kiến về bảy nỗi sợ, đòi hỏi vai trò giám sát chặt chẽ của các địa phương, yếu tố quan trọng khác là khuyến khích mọi người làm du lịch một cách văn minh và hưởng lợi hợp pháp từ du lịch. Mỗi người dân đều có thể là một đại sứ du lịch. Từ nhân viên hải quan biết cười chào đón khách khi họ vừa đặt chân đến Việt Nam, đến người lái taxi biết từ bỏ lòng tham vặt để không “chặt chém”, hay một người dân bản địa không tuỳ tiện xả rác… tất cả đều sẽ góp phần kiến tạo nên quốc gia du lịch.
Tôi tin rằng, với thế mạnh du lịch sẵn có của đất nước, bằng một chiến lược phát triển dài hạn và khát vọng đón khách một cách tử tế, du lịch Việt Nam sẽ không chỉ dừng lại ở con số 8 hay 10 triệu lượt khách quốc tế hoặc 10% GDP quốc gia.
Phạm Hà
Nguồn: Vnexpress mục góc nhìn
Ông Phạm Hà là Chủ tịch kiêm CEO Lux Group và là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực du lịch sang trọng. Ngoài lĩnh vực kinh doanh, ông còn là một người say mê sưu tập tranh, đồ cổ, viết báo về thương hiệu, kinh tế, quản trị kinh doanh và sách về di sản văn hóa, lịch sử và mỹ thuật.
VÌ SAO DU LỊCH VIỆT NAM MỞ CỬA SỚM VẪN ĐỨNG “BÉT BẢNG”
Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong khu vực mở cửa trở lại nhờ triển khai thành công chương trình tiêm chủng và đạt tỷ lệ cao người dân được tiêm chủng. Tuy nhiên, Việt Nam đã không thể tận dụng được lợi thế của vị trí dẫn đầu này. Chúng ta chỉ có thể đón được khoảng 3,5 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2022, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu đón được 5 triệu lượt khách quốc tế và tạo ra tổng thu khoảng 4,5 tỷ đô la. Vậy nguyên nhân của tình trạng này là do đâu và đâu sẽ là giải pháp cho ngành du lịch Việt? Chuyện tối nay hôm nay chúng tôi có mời đến trường quay ông PHAM HÀ – chủ tịch, CEO Lux Group (www.luxgroup.vn) – Chuyên gia Du lịch và Du Thuyền cao cấp sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.
MC: Vừa qua đã có thống kê, Việt Nam chỉ đón có 3,5 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2022 theo Ông đâu là nguyên nhân của tình trạng này?
Ông Phạm Hà: Nguyên nhân thì có nhiều, chủ quan và khách quan. Phần lớn là do chính chúng ta, chủ quan là chính, khách quốc tế đến Việt Nam chưa dễ dàng và đến rồi chưa vui. Là người làm du lịch lâu năm, tôi không ngạc nhiên vì con số này. Con số 5 triệu khách là con số bốc thuốc khi chúng ta mở cửa du lịch không có tính toán căn cơ và làm thế nào để đạt được, đạt được số đó thì ai làm, ai phục vụ họ khi nhân lực của nhành đã chuyển qua nghành khác hay bỏ nghề vì ít hoặc không có sự hỗ trợ 2 năm Covid.
Tôi không thấy có kế hoạch cụ thể nào từ 15 tháng 3 làm thế nào để DLVN chúng ta đạt được số lượng khách trên, họ là ai, đến từ đâu, có kết nối hàng không dễ dàng, họ mong muốn gì khi đi du lịch Việt Nam, tại sao chọn Việt Nam chúng ta, hành vi tiêu dùng của họ thay đổi như thế nào, và Việt Nam chúng ta có gì cuốn hút và khác biệt, cạnh tranh hơn đối thủ Thái Lan và Malaysia hay không? Khi nào là mùa đi du lịch của họ và sản phẩm du lịch nào phù hợp, điểm đến nào mới với thị trường khách nguồn mục tiêu mà du lịch VN nhắm tới? Hoàn toàn thiếu vắng một chiến lược ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Các doanh nghiệp cứu mình và tự bơi là chính.
Khi mở cửa du lịch lại sắp vào dịp hè, khi khách nội địa đông thì chúng ta thỏa mãn và cho rằng du lịch đã phục hồi, nhiều cuộc kịch hoạt các địa phương rầm rộ, phần lớn vẫn là ta làm cho ta xem, không có các hoạt động đổi mới nào xúc tiến lớn ở nước ngoài, các cơ chế chính sách không linh hoạt phù hợp với sự thay đổi và cạnh tranh khu vực. Visa là một ví dụ, Thái Lan đã thay đổi thích ứng nhanh chóng tới 7 lần visa, 45 ngày, vào ra nhiều lần và có cả visa 90 ngày cho khách lưu trú lâu hơn. Ngoài ra thiếu vắng một ban chỉ đạo chính phủ phục hồi nghành kinh tế này, du lịch, hàng không, lữ hành. Kết nối hàng không yếu kém, thiếu nhân sự trong nghành, sản phẩm, xúc tiến không có hiệu quả, vì chưa biết làm mới mình và vẫn tư duy cũ và nhiều bộ ban ngành vẫn nghĩ khách ở ngay cửa du lịch biên giới mở cửa là khách đến ngay, ùa vào thăm quan Việt Nam chúng ta.
thiếu kịch bản tổng thể cho việc mở cửa đón khách du lịch quốc tế
MC: Nhiều ý kiến cho rằng một trong những nguyên nhân mà nhiều khách du lịch nước ngoài gặp phải là quá trình làm visa vào Việt Nam mất nhiều thời gian. Vậy điều này có thực sự ảnh hưởng để việc tìm kiếm thị trường khách của các doanh nghiệp không thưa Ông?
Ông Phạm Hà: Chúng ta đã có nghị quyết 08 và 36 của TW Đảng về DL là ngành kinh tế, và coi kinh tế biển trong đó có DL Biển ưu tiên đầu tiên phát triển, sau 5 năm rồi chúng ta vẫn còn trên giấy, chưa có hành động cụ thể biến nghị quyết thành hành động và du lịch VN còn chưa là nghành kinh tế và quá nhiều nút thắt từ thể chế chính sách, chất lượng nguồn nhân lực, sản phẩm du lịch, định vị thương hiệu quốc gia, quản lý điểm đến, chuyển đổi số đồng bộ và ứng dụng vào thực tiễn. DLVN chấm dứt được “ước khoảng” mà phải thực tế, thành thật trong thống kê, ra được số liệu chính xác từ SỐ.
DL là liên nghành liên vùng, nhiều khi tiếng nói quá nhỏ bé và nói không ai nghe. Visa là một trong những nút thắt trong thể chế chính sách, nói nhiều rồi, biết rồi khổ lắm nói mãi mà vẫn chưa thay đổi được từ nhiều năm nay. Các nước thực hiện visa rất tốt, linh hoạt và visa vàng thì chúng ta vẫn 15 ngày vào ra một lần, lạc điệu và trì trệ, kém cạnh tranh. Điểm chạm đầu tiên khách thấy chính sách visa VN chưa đột phá, không chào đón họ.
Cần visa 30-45 ngày 6 tháng đến 1 năm cho khách ở lâu hơn và chi tiêu tiền nhiều hơn. Ít nhất VN nên cấp visa du lịch 30 ngày, vào ra nhiều lần. Miễn visa cho các thị trường nguồn như Úc, NZ, các nước Bắc Âu, Mỹ- Canada… ít nhất 65 nước như Thái Lan đang miễn nếu muốn cạnh tranh với họ. Tiến hành cấp visa điện tử nhanh chóng bằng nhiều ngôn ngữ, mở rộng các nước được cấp, đưa Sri Lanka, Ấn Độ, Nam Phi…
Visa
Các quốc tịch khách được miễn Visa du lịch 15 ngày vào Việt Nam, khi muốn ở dài hơn 30 ngày cũng không được sử dụng 15 ngày miễn trừ và 30 ngày E-Visa, khiến cho khách phải bay qua nước thứ 3 rồi quay lại nhập cảnh mới được áp dụng tiếp E-Visa, khiến cho khách cảm thấy phiền phức, mất tiền, mất thời gian nên họ không lưu trú dài ngày tại Việt Nam, trong khi có những quốc tịch khách có thể lưu trú 2-3 tuần tại các vùng biển đẹp của Việt Nam như khách Đức thì việc này đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng các tour trọn gói có nghỉ biển dài ngày cho đối tượng khách chi trả cao như vậy
MC: Việt Nam chưa có Kế hoạch cấp quốc gia về Phục hồi ngành Du lịch và Khách sạn. Ngoài ra, ngành du lịch còn đang phụ thuộc vào các sáng kiến, dự án mang tính sự việc không thường xuyên. Ông nghĩ sao về điều này?
Ông Phạm Hà: Như tôi nói trên, Việt Nam chưa coi trọng du lịch là một nghành kinh tế, thiếu vắng một một nhạc trưởng, MỘT BỘ DU LỊCH trong dài hạn hoặc ít nhất phải có ngay một ban chuyên trách phục hồi nghành du lịch, có kế hoạch phục hồi du lịch nhanh chóng bằng kế hoạch cụ thể từ TW tới địa phương, trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để phục hồi, tháo gỡ khó khăn và phát triển du lịch, hành không, khách sạn một cách bền vững, mang tính cạnh tranh cao và mang về USD, đóng góp hơn 10% cho GDP.
Kế hoạch đó phải gỡ được các nút thắt kể trên như thể chế chính sách, chất lượng nguồn nhân lực, sản phẩm du lịch, xúc tiến du lịch, quản lý điểm đến, kết nối hàng không, chuyển đổi số. Cần có đối thoại thoại công tư, tháo gỡ khó khăn để các doanh nghiệp tự lực tự cường còn sống được qua Covid có cơ hội hồi sinh và phát triển được.
Có những nghiên cứu thị trường, định vị thương hiệu, phát triển thị trường mới thay thế, câng cao chất lượng du lịch VN< định vị điểm đến di sản, nhắm khách trung và cao cấp, có khả năng chi trả cao và đến bằng đường hàng không và đường biển còn rất khiêm tốn 2%. Hạ tầng cảng thủy nội địa, tài nguyên ven biển duyên hải cần phải đánh thức, tạo sản phẩm du thuyền Made-in-Vietnam chạy dọc bờ biển và ra các nước trong khu vực và đón khách tàu biển cao cấp đến với các cảng biển và thành phố ven biển Việt Nam.
MC: Theo Ông thì vì sao các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore… họ lại là những thị trường du lịch hấp dẫn hơn chúng ta?
Ông Phạm Hà: Đấy là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của DLVN, tài nguyên du lịch, cảnh quan thiên nhiên, văn hóa, ẩm thực, con người, di sản ít hơn và kém hơn chúng ta nhưng Thailand trước Covid đón 40 triệu khách, Malaysia đón 30 triệu khách quốc tế.
Chiến lược “SMILE” của Thái Lan được viết tắt từ các chữ S (Bền vững về mọi khía cạnh), M (Nhân lực: Nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động du lịch lên tiêu chuẩn quốc tế), I (Nền kinh tế bao trùm: Đảm bảo tất cả các khu vực kinh tế đều được đưa vào ngành du lịch), L (Bản địa hóa: Thúc đẩy tính độc đáo của các cộng đồng như là điểm thu hút du lịch), và E (Hệ sinh thái: Thúc đẩy du lịch sinh thái và môi trường địa phương).
Họ đi trước và họ chuyên nghiệp hơn chúng ta về mọi mặt, họ có hẳn bộ DL hoặc cơ quan ngang bộ về DL, họ coi DL là một nghành kinh tế, tất cả cho du lịch và vì du lịch. Truly Asia, Amazing Thailand cùng các chiến dịch marketing hiệu quả tăng gấp 2, 3 lượng khách trong thời gian ngắn và lượng khách có chất lượng.
MC: Dưới góc độ doanh nghiệp, hiện nay cái khó nhất và mong muốn lớn nhất của các doanh nghiệp là gì thưa Ông?
Ông Phạm Hà: Phần lớn các doanh nghiệp lữ hành VN đều nhỏ, họ thực sự khát vốn và giải bài toán nhân sự lúc này để phục hồi. Họ cần các thông tin thị trường, sản phẩm mới, xu thế mới hậu Covid, số hóa cho doanh nghiệp của họ như thế nào và từ đâu.
Khi phát triển các thị trường mới cần có hãng hàng không, cty du lịch, khách sạn cùng phát triển, xúc tiến, với sản phẩm cụ thể thì sẽ chiếm lĩnh thị trường nhanh hơn và hiệu quả hơn.
MC: Vậy chúng ta cần làm gì để tháo gỡ những khó khăn hiện nay cho thị trường du lịch quốc tế thưa ông?
Ông Phạm Hà: Về lâu dài nếu chính phủ VN coi DL là nghành kinh tế cần sớm có BỘ DU LỊCH để phát triển du lịch bền vững và đóng góp nhiều hơn cho GDP.
Trước mắt cần có chiến ban trực thuộc chính phủ chuyên trách mảng phục hồi ngành này trong 2 năm, tiếp sức ngành hàng không, khách sạn, lữ hành, khó đâu gỡ đó nhất là cơ chế chính sách như visa. Phát triển hiệu quả quỹ phát triển du lịch mà CP đã cấp mà hiện đang khá rối khi về BỘ VHTTDL, Tổng Cục DL còn là Cục DL trực thuộc.
DLVN cần tập trung vào các thị trường nguồn, khách cao cấp, đột phá về chính sách visa thực sự thân thiện thông thoáng. Nhiều chuyên gia du lịch quốc tế nói với tôi VN có nhiều tiềm năng du lịch hơn cả trong CHÂU Á. VN cần định vị thương hiệu làm mới mình với bộ nhận diện thương hiệu mới, WOW Việt Nam chẳng hạn, wow nature, culture, food and people. Lấy di sản làm thương hiệu quốc gia, đổi mới sáng tạo từ di sản, tạo trải nghiệm mới.
Mở tung các rào cản, tư duy cũ, các vùng biển liên kết được với nhau như Hạ Long với Lan Hạ. Huế với Đà Nẵng…để khách quay trở lại với hạ tầng tốt hơn, thuận tiện hơn, đi lại dễ dàng hơn, vui hơn. Kinh tế ban đêm cần triển khai càng sớm càng tốt từ 6 tối tới 6h sáng mới là thời gian tiêu tiền nhiều nhất của du khách. 3,5 triệu khách mà tiêu bằng 5 triệu khách thì cần gì phải cố đón 5 triệu khách cho điểm đến quá tải, không có người làm du lịch.
DL VN nên định nghĩa lại, tư duy lại, ít mà chất, không nhất thiết phải cố sống cố chết với 5 triệu và thành tích năm này cao hơn năm trước. Hãy lấy khách du lịch làm trung tâm thỏa mãn họ, giầu cảm xúc, nhớ về VN, đi lại nhiều lần, vui vẻ, tiêu tới đồng USD cuối cùng, có lẽ đấy mới là du lịch. DL giờ đây tất cả là điểm đến, trải nghiệm và ký ức.
MC: Cảm ơn Ông đã tham gia chương trình!
Thực hiện: Thanh Hà
Định vị thương hiệu du lịch Hải Phòng bằng sản phẩm cao cấp Phạm Hà, CEO Lux Group
1. Ưu tiên phát triển sản phẩm cao cấp
Du lịch Hải Phòng cần ưu tiên tập trung vào lấy khách hàng làm trung tâm, sản phẩm cao cấp, cơ chế chính sách thuận lợi để phát triển du lịch, định vị thương hiệu, ứng dụng số quản lý và quảng bá du lịch ngắm tới khách hạng sang quốc nội và quốc tế có khả năng chi trả cao, ở lâu hơn. Từ đó, định vị điểm đến Hải Phòng cao cấp, khai thác mỏ vàng di sản văn hóa và thiên nhiên, nghỉ dưỡng biển đảo, sản phẩm chủ đề như golf, du thuyền và ẩm thực.
Việt Nam chúng ta vẫn loay hoay chọn lựa du lịch đại trà hay cao cấp. Thực tế là trong thời gian qua, một trong những điểm yếu của ngành du lịch là tập trung quá nhiều vào một điểm khiến cho nơi lưu trú quá tải, ô nhiễm môi trường, nguồn nhân lực không đảm bảo, dịch vụ đi xuống…Theo đó, về lâu dài, du lịch Việt Nam cần có một định hình, định vị thương hiệu quốc gia tốt.
Trong khu vực, Việt Nam có thế mạnh về di sản và biển thì chúng ta có chọn để định vị làm thương hiệu quốc gia, để từ đó thực hiện các chiến lược dài hơi để Việt Nam trở thành một điểm đến cao cấp trong khu vực. Khi định vị được thương hiệu, Việt Nam sẽ có các chính sách, hình ảnh, chương trình xúc tiến, nội dung xúc tiến hiệu quả hơn, truyền bá tốt hơn hình ảnh đất nước Việt Nam ra với thế giới. Cơ hội phục hồi cho du lịch và bất động sản du lịch nghỉ dưỡng ở các nước hiện nay là như nhau. Nước nào chuẩn bị tốt và nhanh thích ứng thì sẽ nắm bắt được cơ hội vàng này.
Từ câu chuyện định vị thương hiệu cho du lịch Việt Nam nói riêng, có thể soi lại định vị thương hiệu của Hải Phòng. Tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị:
Tháo gỡ 4 nút thắt để thể chế chính sách thông thoáng, phục vụ doanh nghiệp, sản phẩm khác biệt độc đáo, chất lượng nguồn nhân lực và định vị thương hiệu du lịch thành phố, lấy khách hàng làm trung tâm và xúc tiến hiệu quả.
Chính quyền thành phố Hải Phòng và các ban nghành liên quan cùng phát triển du lịch như một nghành kinh tế, coi trọng kinh tế du lịch có cơ chế hỗ trợ, phát triển mạnh và bền vững. Phát triển du lịch bền vững tạo ra nơi đẹp hơn để du khách đến thăm và nơi đáng sống cho người dân bản địa. Rác thải quá nhiều ven bờ và trong vịnh Lan Hạ, cáp treo qua rừng Cát Bà sẽ làm hỏng hệ sinh thái rừng, động thực vật, cần phát triển và bảo tồn 60 cá thể vọc Cát Bà. Phát triển nông nghiệp sạch, đảo văn minh và thông minh, phát triển du lịch nông nghiệp, du lịch di sản biển đảo, du thuyển, khu nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe toàn diện, MICE, ẩm thực, du lịch thể thao trong đó có Golf.
Cơ chế phát triển du lịch hạ tầng đồng bộ, cảng biển du lịch, đường bộ ra Cát Bà tránh ác tắc mùa cao điểm, thuận tiện cho du khách.
Hải Phòng cần chú trọng du lịch cao cấp, muốn vậy phải có chất lượng nguồn nhân lực tốt, có năng lực, thái độ, kỹ năng và giỏi chuyên môn nghiệp vụ. Học đi đôi với hành. Sản phẩm cao cấp và định vị mới, như Hải Phòng vui hơn, ăn ngon hơn sẽ giúp khác biệt độc đáo so với Quảng Ninh và các địa phương phía Bắc. Điều này sẽ thu hút khách trong và ngoài nước đến vì di sản rừng vàng biển bạc, thiên đường biển đảo Hải Phòng, đến dễ dàng, ăn ngon và chơi vui hơn. Cần định vị thương hiệu du lịch Hải Phòng trong mắt khách hàng mục tiêu.
Về liên kết vùng: Trong xu thế hội nhập và nhu cầu tất yếu du lịch cần liên kết vùng, đa ngành nhiều lĩnh vực, xu thế các địa phương đang liên kết để tạo sản phẩm trải nghiệm mới, đa dạng, thuận tiện dễ dàng và thú vị hơn, khách ở lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn, và qua đó xúc tiến cùng nhau hiệu quả. Cụ thể con đường di sản Miền Trung, hay các tỉnh Tây Bắc, Nam Trung Bộ. Riêng Hạ Long và Hải Phòng cũng nên liên kết để tận dụng lợi thế cạnh tranh vùng, điểm đến hấp dẫn hơn và bảo vệ tốt hơn môi trường.
Cụ thể Hải Phòng có thể tận dụng thêm được nguồn khách từ Quảng Ninh thăm quan, mục địch tôn giáo, và nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, hay đi chơi kết hợp 2 nơi một chuyến đi Hạ Long sang vịnh Lan Hạ (Hải Phòng) và ngược lại. Du khách ngủ đêm 3 vịnh một hành trình, đi đến Quảng Ninh và về Hải Phòng, các đường bộ và đường thuỷ tăng doanh thu và hút khách quay lại. Quảng Ninh là thị trường du lịch lớn, hạ tầng tốt và nhiều nét tương đồng, gần đô thị lớn Hà Nội và khách nguồn từ TP.HCM, đều có sân bay, vì thế nên sớm mở rộng vùng di sản đồng bộ hoá chính sách thuế, phí và quản lý bằng GPS giám chi phí cho doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ vào quản lý. Du khách từ Cát Bà có thể sang thăm quan các hang động vịnh Hạ Long trong ngày hay ngủ đêm. Du lịch là phải vui và mở hết cỡ thay vì cấm đoán, ngăn sông cấm chợ.
Việt Nam mở cửa du lịch hoàn toàn: “Chúng ta rụt rè, cầu toàn dẫn tới chậm chạp”
Việc khẩn cấp nhất là phục hồi nguồn nhân lực trong ngành du lịch. Sau 3 năm Covid-19, giờ phải đào tạo lại. Chúng ta không thể có dịch vụ tốt nếu không có nguồn nhân lực có chất lượng, có năng lực và yêu nghề – ông Phạm Hà, Chủ tịch Lux Group chia sẻ quan điểm sau khi Việt Nam mở cửa du lịch ngày 15/3.
Phóng viên: Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong cuộc gặp về mở cửa du lịch do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng Bộ Ngoại giao tổ chức tối qua, nói rằng “chúng ta không chỉ mở cửa du lịch mà còn mở cửa giao lưu, giao thương quốc tế từ 15/3 như trước dịch Covid-19, với tinh thần không phân biệt khách quốc tế với người Việt trên phương diện chống dịch”. Vậy ông có thể nói gì về tình hình du lịch lúc này, sau khi Việt Nam vừa có quyết định mở cửa du lịch?
CEO Phạm Hà: Chúng ta vẫn rất chậm so với các nước về thông tin. Cho đến hôm 15/3 chúng ta mới công bố mở cửa chính thức, khôi phục chính sách visa và hướng dẫn y tế ngày 16/3, như vậy doanh nghiệp và khách du lịch mới có đầy đủ thông tin. Do vậy chúng ta không có khách ngay được mà phải còn truyền thông ra bên ngoài.
Là người làm du lịch, chúng tôi rất vui mừng đón nhận việc Việt Nam mở cửa du lịch, giao thương với thế giới sau 2 năm đóng băng. Du lịch dần phục hồi, các hoạt động đi lại kinh doanh sẽ phục hồi trước, sau đó đến khách du lịch. Chúng tôi không kỳ vọng có lãi mà khôi phục kinh doanh tạo việc làm cho toàn bộ nhân viên.
Là một trong những doanh nghiệp chủ yếu đón khách nước ngoài, ông có gặp vướng mắc gì khi làm việc với các đối tác nước ngoài?
CEO Phạm Hà: Từ năm 2019, chúng tôi đã có khoảng 80 đoàn khách từ Châu Âu đặt tour tới Việt Nam. Trong suốt hơn hai năm Covid-19 với những đợt giãn cách, đóng biên, chúng tôi đã nỗ lực tận dụng mọi tín hiệu để thuyết phục họ không hủy tour.
Mãi cho tới 14/3, một ngày trước khi khách quốc tế được bay vào Việt Nam, các doanh nghiệp du lịch chúng tôi vẫn chưa có trong tay văn bản hướng dẫn chi tiết đón khách như thế nào. Trong khi khách cần câu trả lời hàng ngày, càng cụ thể, chi tiết càng tốt, chúng tôi vẫn chỉ có thể cung cấp thông tin chung chung.
Chúng ta rụt rè, cầu toàn dẫn tới chậm chạp, chậm cả truyền thông ra quốc tế. Trong khi Campuchia, Thái Lan đã mở cửa cả năm qua, thì Việt Nam cần có sự vào cuộc thực sự.
Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về triển vọng phục hồi thị trường khách quốc tế, có điều gì khả quan?
CEO Phạm Hà: Với bối cảnh hiện nay vừa có chiến tranh giữa Nga và Ukraine, vừa dịch bệnh, sự chậm chễ và không thống nhất giữa các bộ nghành, chậm truyền thông và chuẩn bị không tốt cho sự mở cửa du lịch toàn diện thì tôi thấy quan ngại về khả năng phục hồi.
Thực tế cho thấy rằng, chúng ta mở cửa du lịch từ ngày 15/3 nhưng không phải cứ nói mở cửa là khách có thể tới ngay được. Trong ngắn hạn, muốn chiến lược mở cửa thành công thì chúng ta cần chia nhỏ thị trường có khả năng phục hồi nhanh, mạnh, bền vững, và đúng mùa du lịch của khách vào mùa hè như khách châu Âu (Đức, Tây Ban Nha, Anh, Pháp), Mỹ, Trung Đông và Úc.
Gần với chúng ta hơn là thị trường khách trong ASEAN, có thể phục hồi nhanh, và thường có nhu cầu du lịch gần. Trung Quốc có thể lâu hơn, có chăng chúng ta nên tập tập trung vào thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản.
Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch và Tổng cục Du lịch cần chia thị trường mục tiêu theo ngôn ngữ hiểu văn hoá và hành vi tiêu dùng. Hàng không, lữ hành và điểm đến cùng xúc tiến sẽ tạo hiệu ứng tốt tại thị trường mục tiêu, có khách ngay hè này từ tháng 5-6. Chuẩn bị tốt cho mùa du lịch quốc tế đến từ tháng 9.
Chúng ta có các điểm nghẽn cần khơi thông để phát triển kinh tế du lịch là cơ chế chính sách, chất lượng nguồn nhân lực, sản phẩm du lịch và xúc tiến truyền thông. Cơ hội cho các quốc gia là như nhau hậu Covid-19, các tỉnh thành trong một nước cũng như nhau, nên tỉnh thành nào nhanh chóng thính ứng nhanh sẽ phục hồi và phát triển nhanh chóng và được truyền thông tốt.
Có lẽ Việt Nam phải mất ít nhất vài năm mới có thể phục hồi như năm 2019, tuy nhiên chúng ta nên tập trung vào chất lượng, hơn là số lượng. Lấy khách hàng làm trung tâm, sự thỏa mãn họ, lắng nghe họ, tạo nhiều trải nghiệm, cơ chế chính sách mới thông thoáng, nhiều chỗ tiêu tiền, để du khách rộng hầu bao chi tiêu nhiều hơn.
Phóng viên: Trong tình hình dịch bệnh Covid-19 hiện nay, xu hướng, tâm lý của khách du lịch cũng có nhiều sự thay đổi. Theo ông yếu tố nào sẽ tạo nên sức hấp dẫn cho ngành du lịch Việt Nam?
CEO Phạm Hà: So với các nước trong khu vực, du lịch Việt Nam cần xác định sức hút du lịch Việt, điểm khác biệt độc đáo là gì, khách hàng chúng ta là ai, ở đâu, họ thích gì, làm sao thỏa mãn họ. Chúng ta không bán cái mãi chúng ta có mà cái khách hàng cần. Muốn vậy phải định vị cho được thương hiệu du lịch quốc gia Việt Nam trong mắt khách hàng tiềm năng. Khách hàng ở đâu marketing ở đó, có vậy mới trúng và đúng.
Theo tôi, 4 điểm mạnh và khác biệt du lịch Việt Nam: Văn hóa, thiên nhiên, ẩm thức và con người. 4 điểm yếu là cơ chế chính sách, chất lượng nguồn nhân lực, sản phẩm du lịch và xúc tiến quảng bá. Cần định vị du lịch Việt Nam là điểm đến di sản, nâng tầm, sáng tạo thu hút khách sang trọng. Giờ là lúc cần làm mới du lịch Việt Nam, nhận diện lại thương hiệu, thực hiện tầm nhìn mới, du lịch thành thực sự là một ngành kinh tế quan trọng của đất nước.
Thời hậu Covid, cơ hội cho các quốc gia là như nhau, nước nào thích ứng nhanh, chuẩn bị tốt thì sẽ có nhiều cơ hội. Chúng ta đang quá chậm so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam tự đặt ra quá nhiều rào cản và chưa thống nhất được các bộ, ban, nghành để phát triển du lịch như một nghành kinh tế thực sự.
Việt Nam chúng ta có quá nhiều tài nguyên du lịch hấp dẫn, hạ tầng thay đổi và cải thiện rất nhiều theo hướng thuận tiện và cao cấp, như sân bay, cảng biển, đường xá, máy bay thuê riêng, khách sạn, du thuyền sang trọng, nhiều khu thương hiệu quốc tế đến và nhiều điểm đến mới nổi trong 2 năm qua như Phú Quốc, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Vịnh Lan Hạ, khu bảo tồn Pù Luông. Du khách luôn có nhu cầu tìm về những điểm đến mới, xanh hơn, thuận thiên, thuận tiện đến dễ dàng hơn, đến vui hơi nhiều trải nghiệm, giàu cảm xúc cho thân, tâm và tuệ.
Khách du lịch hiện nay cũng có xu hướng chậm lại, họ tìm tòi, mộng mơ, khám phá, thư giãn, tận hưởng, trải nghiệm giầu cảm xúc và hòa mình vào văn hóa và thiên nhiên. Chúng ta phải đặt khách hàng làm trung tâm, thoả mãn họ mọi điểm chạm để khách đi rồi muốn quay lại thay vì một đi không trở lại. Muốn vậy khách đến Việt Nam phải thực sự dễ dàng hơn, đến rồi được tiêu nhiều tiền hơn, thỏa mãn hơn, vui hơn.
Du lịch giờ đây tất cả là điểm đến, trải nghiệm và ký ức. Du lịch Việt Nam hậu Covid 19 cần chất hơn lượng, hướng tới khách cao cấp, khách sang trọng, quan tâm tới di sản văn hoá, ở lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn như khách châu Âu, Úc, Mỹ.
Phóng viên: Du lịch Việt Nam có những “nút thắt” gì cần tháo gỡ để có thể phục hồi nhanh chóng và mạnh mẽ?
CEO Phạm Hà: Việt Nam có thể trở thành quốc gia du lịch hàng đầu châu Á, về di sản và du lịch biển. Về lâu dài, du lịch Việt Nam cần giải quyết bốn điểm yếu, nút thắt như thể chế chính sách (trong đó phải có Bộ Du Lịch, coi du lịch là nghành kinh tế, có vấn đề visa thân thiện, không quá phụ thuộc quá nhiều vào một vài nguồn khách), nguồn nhân lực, sản phẩm du lịch và định vị thương hiệu du lịch quốc gia Việt Nam. Cần có nhận diện lại thương hiệu trong du khách quốc tế, nhất là sau Covid, các nước đang làm mới lại thương hiệu quốc gia của họ.
Covid-19 đã làm đứt gẫy và sụp đổ nhiều mắt xích quan trọng của ngành du lịch. Việc đứt gãy các chuỗi cung ứng như vận chuyển (nhà xe cần bảo dưỡng, sửa chữa sau hai năm đắp chiếu), khách sạn (không phải tất cả đều mở cửa), hướng dẫn viên, nhân sự du lịch không có… khiến việc hồi phục khó có thể nhanh được, mà chỉ có thể từ từ.
Có lẽ việc khẩn cấp nhất trong ngắn hạn là phục hồi nguồn nhân lực lao động trong ngành du lịch. Sau 3 năm Covid, giờ phải đào tạo lại, đưa họ trở lại làm việc, giúp họ về tài chính và công việc ổn định khi tương lai chưa sáng sủa. Vì du lịch tất cả là con người, chúng ta không thể có dịch vụ tốt nếu không có nguồn nhân lực có chất lượng, có năng lực và yêu nghề.
Khẩn tiếp theo xác định được điểm mạnh của du lịch Việt, sản phẩm nào đặc trưng để du khách nghĩ tới là muốn đi VN. Từ đó nhận diện lại thương hiệu lại DLVN, cần những chuyên gia thương hiệu, không phải từ các cuộc thi. Làm mới lại mình, xác định lại chân dung khách hàng mục tiêu, nguồn khách để có chiến lượng tiếp thị hiệu quả. Khách hàng ở đâu thì marketing ở đó. Trong nước cần truyền thông nhận thức của du khách và xã hội đối với nghành du lịch.
Mỗi người dân yêu di sản văn hóa đất nước mình bằng sự tự hào và giới thiệu du khách như đại sứ du lịch. Marketing hiệu quả trên môi trường số, đong đo đếm được số lượng khách,cần chuyên trách cho từng khu vực và thị trường và chiến lược dài hơi và cụ thể hóa tầm nhìn DLVN.