Đặc tính tranh Phạm Lực
Đặc tính tranh Phạm Lực
Ngay ở thời điểm hiện nay, vẫn có đến 70% dân số Việt Nam sống ở vùng nông thôn, tức là sinh hoạt trong một môi trường rất gần gũi với thiên nhiên. Miền Bắc Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên có cả mùa hè dài và nóng lẫn mùa đông, tuy rất ngắn, nhìn chung là có đủ sự biến đổi theo bốn mùa. Ngoài ra, từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm thường phải đón chịu các cơn bão, có những lúc lại phải chịu thiên tai như lũ lụt, có thể nói người Việt Nam sống trong một môi trường tự nhiên khá khắc nghiệt. Hơn nữa, lại trải qua một thời kỳ chiến tranh kéo dài, nên cuộc sống của người Việt Nam bị đặt trong một hoàn cảnh khắc nghiệt cả về tâm lý, xã hội cũng như kinh tế.
Chính trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc kéo dài, phải làm thế nào để sống sót trở về, không thể chết được nếu chưa “nghe thử bài hát đó”, “ăn lại một lần bữa ăn đó”, “xem lại một lần bức tranh đó” là tâm lý chung của người Việt Nam. Để khích lệ bản thân, lấy lại cuộc sống nhân văn cũng như để chia sẻ niềm vui với gia đình và những người thân, con người cần đến các môn nghệ thuật như âm nhạc, diễn kịch, văn học, hội họa. Ngược lại, trong môi trường đó, các bộ môn nghệ thuật cũng được nuôi dưỡng bởi khát vọng mang tính nhân bản là được sống theo đúng nghĩa của một con người, do vậy chúng tồn tại một cách rất gần gũi với đời sống. Đây được gọi là truyền thống của nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
Lấy ví dụ, ngay cả những họa sĩ lớn lên ở thành phố, do rất quen thuộc với văn hóa phong tục truyền thống của vùng nông thôn, nên rất dễ dàng cảm thụ được tinh thần dân tộc dù thông qua bất kỳ một hình thức biểu hiện nghệ thuật nào. Các làn điệu Chèo – được coi là nghệ thuật kinh kịch của Việt Nam, các làn điệu dân ca, tranh khắc Đông Hồ, điêu khắc trên kiến trúc đình ở các làng nghề trong một thời gian dài đã ảnh hưởng đến việc hình thành năng lực cảm thụ của người nghệ sĩ Việt Nam.
Có thể nói dù ý thức hay không ý thức, người nghệ sĩ Việt Nam, dù hoạt động trong lĩnh vực nào đi chăng nữa, nhìn chung đều xác định mình mang sứ mệnh phải đáp ứng được những nhu cầu mang tính cơ bản của dân tộc mình. Đặc biệt nếu so sánh với văn học, diễn kịch hay âm nhạc, hội họa ít chịu sự áp đặt chính trị và tư tưởng hơn, nên các họa sĩ được tự do hơn trong việc thể hiện nội tâm của mình. Với ý nghĩa này, có thể coi Phạm Lực là một họa sĩ đã thể nghiệm tinh thần dân tộc Việt Nam.
Trước tiên, hay thử cùng tìm hiểu từ góc độ một họa sĩ chuyên nghiệp. Tuy không xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nhưng có thể nói tranh của Phạm Lực nằm trong dòng chảy truyền thống của nền hội họa cận đại Việt Nam. Đó là vì các tác phẩm của Phạm Lực chia sẻ được nhận thức chung về việc “làm thế nào để phát triển hiện đại trên cơ sở nối dài truyền thống”. Đề tài của Phạm Lực được lấy từ những điều rất gần gũi với đời sống của người dân Việt Nam bình thường như tranh nhân vật lấy đề tài về mẹ và con, tranh phong cảnh về vùng nông thôn hay làng chài, tranh về gia súc như trâu, tranh tĩnh vật như hoa quả hay bình hoa…
Bên cạnh đó, Phạm Lực cũng dám vẽ rất nhiều tác phẩm về đề tài nude, một đề tài mà nhiều họa sĩ Việt nam chịu ảnh hưởng của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa thường tránh né. Trong lựa chọn đó, có thể cảm nhận được ý thức mãnh liệt về cái tôi của họa sĩ, ý thức tôi lựa chọn cái mà tôi muốn vẽ. Đối với Phạm Lực giá trị tối thượng là “sự tự do của bản thân”.
Ngoài ra, không chỉ sử dụng hình thức tranh của Phương Tây như tranh dầu, tranh chì hay màu nước, Phạm Lực còn sử dụng những nguyên liệu rất truyền thống của Việt Nam. Ông cũng có các tác phẩm tranh sơn hay tranh lụạ. Dù một tác giả tranh sơn người Nhật là Ando Saeko đã phê phán “tranh sơn của Phạm Lực không sử dụng chất liệu sơn truyền thống của Việt nam mà sử dụng chất liệu sơn hóa học hợp thành, cũng như không sử dụng kỹ thuật sơn mài nên không thể coi là tranh sơn thuộc dòng chính thống”, nhưng rõ ràng Phạm Lực cũng có những tác phẩm tranh sơn.
Ngoài ra, do từng ở trong quân ngũ, nên Phạm Lực vẽ nhiều tranh về đề tài người lính hay gia đình ở lại của người lính trong thời chiến. Tuy nhiên, dù chọn đề tài nào đi chăng nữa, dù dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp, những bức tranh đó đều thể hiện “nỗi buồn chiến tranh”. Phạm Lực không có dù chỉ một tác phẩm theo phong cách cổ động nhằm nâng cao tinh thần chiến đấu như những tác phẩm mà các họa sĩ “đi theo quân đội” hay vẽ.
KHÁI QUÁT VỀ NỀN HỘI HỌA CẬN ĐẠI VIỆT NAM
KHÁI QUÁT VỀ NỀN HỘI HỌA CẬN ĐẠI VIỆT NAM
Cho đến khi giành được độc lập vào thế kỷ X, Việt Nam đã bị Trung Quốc đô hộ trực tiếp trong suốt 1000 năm (Thời kỳ Bắc thuộc). Ngay cả sau khi độc lập, các vương triều Việt Nam cũng thống trị đất nước theo mô hình vương triều kiểu Trung Quốc. Nhà Lý (1009-1225), nhà Trần (1225-1400), nhà Lê (1428-1789), nhà Nguyễn (1802-1945) đều xây dựng cung điện theo kiểu Trung Quốc. Do vậy, chắc chắn đã tồn tại những họa sĩ để vẽ bích họa, trang trí trên tường hay trần cung điện.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu lịch sử Đào Thế Hùng (1), các họa sĩ khi đó làm việc với tư cách là những người thợ vô danh trong một nhóm thợ, ở Việt Nam không có truyền thống làm việc với tư cách là họa sĩ chuyên nghiệp độc lập.
Năm 1925, sau 40 năm bị Pháp xâm chiếm làm thuộc địa, tình hình xã hội Việt Nam đã đi vào ổn định, người Pháp đã thành lập tại Hà Nội Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Một họa Sĩ người Pháp là Victor Tardieu (1870-1937) đã có công rất lớn ương việc thành lập ngôi trường này. Việc một tác phẩm trưng bày tại triển lãm tại Paris giành được giải thưởng Đông Dương của Hiệp hội Mỹ thuật Thuộc địa Pháp đã đưa Tardieu đến Việt Nam.
Giải thưởng Đông Dương này chính là một gói học bổng đến làm việc tại Đông Dương, họa sĩ được giải sẽ nhận được một tấm vé hai chiều Paris – Đông Dương cũng như một chuyến du lịch Đông Dương miễn phí. Do chi phí ăn ở không dư giả lắm, nên thông thường, các họa sĩ chỉ lưu lại Đông Dương trong một thời gian ngắn rồi về nước.
Tuy nhiên, sau khi đến Hà Nội, Tardieu đã nhận công việc vẽ bức bích họa lớn trên tường của Đại học Đông Dương vốn đang được xây dựng, nên ông đã kéo dài thời gian lưu lại Hà Nội. Trong thời gian ở đây, Tardieu đã tìm hiểu về tình hình mỹ thuật Đông Dương cũng như giao lưu với các họa sĩ bản địa, dẫn đến ý tưởng thành lập một trường cao đẳng mỹ thuật với mục đích “bồi dưỡng những nghệ sĩ (bản địa) thông qua việc cảm hóa họ bằng những tư tưởng và phương pháp ưu Việt của nước Pháp”.
Cụ thể, Tardieu đề xuất với Toàn quyền Đông Dương Merlin về một phương án cải cách giải thưởng Đông Dương. Theo đó, họa sĩ được giải sẽ dành năm đầu tiên để du lịch Đông Dương, năm tiếp theo sẽ phải có nghĩa vụ giảng dạy tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Phương án này đã được chấp thuận.
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã được thiết lập với Pháp lệnh ngày 27/10/1924. Một năm sau đó, Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã chính thức mở cửa. Các công trình kiến trúc và tổ chức cũng dần dần được hoàn thiện, để 5 năm sau, hai khoa Điêu khắc Hội họa Phác thảo và Khoa Kiến trúc đã bắt đầu tiếp nhận học viên. Khoa Điêu khắc Hội họa Phác thảo có 50 học viên, 40 người thuộc khóa dự bị, Khoa Kiến trúc có 10 người, 16 người thuộc khóa dự bị, tổng số là 116 người. Trừ khóa dự bị, thời gian tu nghiệp là 5 năm. Đại đa số học viên được chu cấp chi phí học tập, được bảo đảm điều kiện kinh tế trong suốt 5 năm, nên có thể tập trung để tiếp nhận nền giáo dục mỹ thuật.
Đội ngũ giảng viên được tổ chức rất bài bản, các họa sĩ được giải thưởng Đông Dương chủ yếu phụ trách các giờ học kỹ thuật thực tiễn, trong khi các môn lịch sử mỹ thuật, lịch sử mỹ học, khảo cổ học ủy thác cho đội ngũ giảng viên đến từ Học viện Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Francaise de l’Extreme Orient: EFEO). Như vậy, Trường Cao đăng Mỹ thuật Đông Dương đã học tập mô hình của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Paris, vốn đã tích lũy truyền thống và kinh nghiệm từ thời Phục hưng.
Các kỹ thuật hội họa và điêu khắc được giảng dạy thuộc trường phái Paris. Tuy nhiên, Tardieu còn có một ý tưởng tiến bộ hơn nhiều. Ông nhận thức vấn đề là “phải làm thế nào để có được sự phát triển mang tính hiện đại trên cơ sở kéo dài truyền thống”. Ý tưởng này là khuyến khích học viên trên cơ sở học tập kỹ thuật và tư tưởng của Trường phái Paris, phối hợp những kiến thức đã học được với các tư tưởng và kỹ thuật truyền thống của Việt Nam theo hướng hiện đại.
Được dẫn dắt bởi triết lý của Tardieu, các họa sĩ thuộc thế hệ đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương bên cạnh việc tiếp thu các kỹ thuật và nguyên lý của nền hội họa Pháp, đã thử nghiệm việc sáng tác theo các chủ đề truyền thống để hình thành nên một phương pháp hội họa riêng. Các họa Sĩ này được gọi là “trường phái Hà Nội”. Các họa sĩ nổi tiếng như Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Vũ Cao Đàm, Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ đã hình thành nên “trường phái Hà Nội” này.
Công lao lớn nhất của những họa sĩ hoạt động với tư cách là chuyên gia thời kỳ đầu này là họ đã ứng dụng được các chất liệu truyền thống của Việt Nam như sơn mài hay tranh lụa vào kỹ thuật hiện đại, biến chúng không chỉ dừng lại ở những đồ thủ công trang trí mà trở thành những tác phẩm hội họa, nâng cao được giá trị nghệ thuật của chúng.
Tại khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam có thể khai thác được nguồn sơn với chất lượng tốt. Do vậy, năm 1927, người phụ trách giảng dạy hội họa tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương là Joseph Inguimberty đã quyết định mở lớp hội họa sơn. Năm 1937, Tardieu qua đời, 1 năm sau tức năm 1938, Évariste Jonchère kế nhiệm Tardieu làm hiệu trưởng đã tiếp tục phát triển Khoa sơn, cũng như thành lập trường thủ công tại nhiều địa phương.
Ngoài ra, Nguyễn Phan Chánh – học viên khóa đầu tiên được Victor Tardieu nhận xét là không thích hợp với tranh dầu mà tài năng của ông hợp hơn với tranh truyền thống, sau một thời gian lao tâm khổ tứ đã tạo ra được một bước đổi mới lớn khi ứng dụng thành công kỹ thuật hiện đại trên tranh lụa. Như vậy, không chỉ dừng lại ở tranh dầu, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã dần dần chuyển sang việc giảng dạy các kỹ thuật truyền thống của Việt Nam như tranh lụa và tranh sơn.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Tuy nhiên, nước Pháp đô hộ không thừa nhận nền độc lập đó, dẫn đến cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Mặc dù năm 1954, tại Điện Biên Phủ, Việt Nam đã giáng một đòn tấn công mang tính hủy diệt vào quân đội Pháp, nhưng trong bối cảnh Chiến tranh lạnh khi đó, Mỹ đã nắm lấy quyền chủ động, thành lập quốc gia “Việt Nam Cộng hòa” ở Sài Gòn, dẫn đến việc chia tách Việt Nam thành hai miền Bắc – Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa), kéo dài cuộc chiến.
Do tình trạng chiến tranh kéo dài trong suốt 30 năm, Miền Bắc Việt Nam đã bị cô lập khỏi thế giới, hoạt động giao lưu mỹ thuật chỉ được tiến hành với các nước Xã hội chủ nghĩa, đi theo con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, do các họa sĩ thuộc thế hệ thứ nhất lẩy mục đích sáng tạo nghệ thuật là sử dụng những phương pháp thể hiện mới mà mình đã được trang bị để phục vụ cho mục đích chính trị, nên họ bắt buộc phải tự phủ định tính cá nhân. Những họa sĩ được đào tạo đông đảo tại các trường mỹ thuật tại Hà Nội trong thời kỳ này được gọi là “thế hệ thứ hai”, nhằm phân biệt với những họa sĩ tiếp nhận nền giáo dục hội họa tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương trước đó.
Việc tiếp xúc với hiện thực Xã hội chủ nghĩa được coi là việc lựa chọn một cách có ý đồ những đề tài liên quan đến tư tưởng, với hình mẫu là các tác phẩm của Liên Xô và Trung Quốc. Những hình mẫu đó đã dẫn dắt các nghệ sĩ đến cuộc sống hiện thực, giúp họ nâng cao trách nhiệm đối với xã hội. Mặt khác, nó lại bó buộc người nghệ sĩ trong một tư duy thẩm mĩ cố định, không chấp nhận sự đa dạng.
Do vậy, các tác phẩm trong thời kỳ này tuy bao hàm nhiều giá trị cống hiến cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng về hình thức thể hiện lại thiếu đi tính sáng tạo, chỉ dừng lại ở những hình thức đơnđiệu và bình thường.
Tuy nhiên, các họa sĩ thuộc “thế hệ thứ nhất” – những người tìm kiếm phương pháp thể hiện đặc trưng của Việt Nam, cũng như “thế hệ thứ hai” đã nghiêng về phong cách hội họa ấn tượng của Châu Âu hơn là phong cách hiện thực Xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và Trung Quốc.
Lối ra cho người nghệ sĩ trong thời kỳ này bị giới hạn trong các cuộc triển lãm tập thể do Hội Mỹ thuật (thành lập năm 1957) hay các cơ quan văn hóa tổ chức. Các cuộc triển lãm cá nhân là cực kỳ hiếm, có thể nói là gần như không có. Việc đánh giá các tác phẩm dự thi cũng phải tuân thủ những tiêu chuẩn thẩm mỹchính thống, các tác phẩm thoát ly khỏi những tiêu chuẩn đó ngay lập tức sẽ bị loại bỏ bởi sự kiểm duyệt của Hội đồng đánh giá nghệ thuật bao gồm lãnh đạo của Hội Mỹ thuật.
Người mua các tác phẩm hội họa trong thời kỳ này là các bảo tàng mỹ thuật, nhưng các bảo tàng tự tiện áp đặt giá cho từng tác phẩm, trong khi người tạo ra tác phẩm hội họa thậm chí còn không có quyền đề xuất giá bán cho tác phẩm của mình. Đó là vì vào thời kỳ này, người ta coi việc được các bảo tàng mỹ thuật mua tranh bản thân nó đã là một niềm vinh dự. Trong tình hình như vậy, người họa sĩ cũng không thể sống được bằng các tác phẩm của mình.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Chiến tranh Việt Nam kết thúc, đất nước được thống nhất. Tuy nhiên, việc đưa quân sang Campuchia (phía Việt Nam dùng từ“đưa quân”, nhưng cộng đồng quốc tế khi đó lại phê phán đây là hành vi “xâm lược”), rồi tiếp theo đó là Chiến tranh Trung – Việt bùng phát, đến đầu những năm 1980 lại xảy ra nạn đói Ở Miền Trung. Đời sống khổ cực, giới mỹ thuật cũng phải trải qua một giai đoạn đầy khó khăn.
Cuối năm 1986, Việt Nam bắt đầu chính sách Đổi mới, nền hội họa Việt Nam cũng bước sang một thời kỳ mới. Bản thân các nghệ sĩ Việt Nam cũng cónhững nỗ lực mang tính chủ động, tuy nhiên ảnh hưởng từ các nhà sưu tầm hội họa nước ngoài cũng rất lớn. Việc các nhà sưu tầm nước ngoài, ban đầu là từ các nước Âu Mỹ và sau đó là từ các nước Châu Á khai quật các tác phẩm hội họa đã kích thích ý chí sáng tạo của các họa sĩ Việt Nam. Chính các nhà sưu tầm này đã xác định giá trị của mỹ thuật Việt Nam, cũng như hỗ trợ cho sự thành công của nhiều họa sĩ mà trước đó hầu như chưa được biết đến.
Thị trường hội họa Việt Nam được mở rộng từ thành phố Hồ Chí Minh nhờ mối liên kết hình thành với các họa sĩ sống Ở nước ngoài. Tại Hà Nội, tuy việc sưu tập có quy mô hẹp hơn, nhưng một vài họa sĩ như Bùi Xuân Phái, Nguyễn Đình Dũng, Đặng Xuân Hòa cũng bắt đầu được các nhà sưu tầm nước ngoài chú ý đến. Một trong số đó chính là Phạm Lực.
PHẠM LỰC LÀ AI?
Phạm Lực, Picasso Việt Nam, Hoạ sĩ chiến sĩ sống qua hai thế kỷ kể chuyện chiến tranh, hoà bình, di sản nước Việt bằng hội hoạ bậc thầy.
Vài nét chính
Được biết đến với tên gọi “Picasso của Việt Nam”, Phạm Lực (1943) là một trong số hiếm hoi những họa sĩ đã vượt qua mọi giới hạn tiền lệ. Thật khó có thể tin được, ở vào tuổi “thất thập cổ lai hy”, nhưng mỗi ngày, họa sĩ Phạm Lực đều có thể đứng trước giá vẽ hơn 12 tiếng và vẽ nên hơn chục bức tranh. Nhẩm tính, một năm sẽ có đến hơn ngàn bức tranh được ông thổi hồn cho tới khi bị tai biến và không thể vẽ được nữa.
Hầu hết những bức vẽ của ông đều được chăm chút bằng tất cả niềm say mê và tỉ mỉ. Song trong số ấy, cũng có không ít những tác phẩm được ra đời chỉ bằng vỏn vẹn những nét vẽ phóng khoáng hay sự thăng đầy hoa ngẫu hứng của người họa sỹ tài ba.
Không chỉ kiên định trong tình yêu nghệ thuật, người họa sĩ với vóc dáng nhỏ gọn, nhưng đậm người này vẫn luôn “một lòng một dạ” với phong cách ria rậm, tóc dài, cố hữu của mình, đặc biệt ngay cả khi ông đang trong thời gian tại ngũ, sống và làm việc tại nơi được biết đến với vô vàn những quy định khắt khe về tác phong, thẩm mĩ.
Thành công trên con đường nghệ thuật, song có lẽ ít ai biết đến tận tường những trở trăn, gian khổ và cả những lận đận trong câu chuyện đời, chuyện tình của ông.
Phải chăng, nhờ tư chất thiên tài, nguồn năng lượng dồi dào, kỹ thuật dụng màu thiên biến vạn hóa, hay bởi cuộc đời đầy những sóng gió, thăng trầm và cả những câu chuyện tình duyên dang dở đã khiến họa sĩ phạm lực được biết đến nhiều hơn qua những cái tên gắn liền với những nhà cầm cọ đại tài của thời đại?
Qua bài viết này, hãy cùng nhau giải mã bí ẩn đó, đồng thời thông trang đời sống động của người họa sĩ đặc biệt ấy, nền hội họa Việt Nam trong thời hiện đại cũng sẽ phần nào được khắc họa rõ nét.
PHẠM LỰC LÀ AI?
Phạm Lực sinh ngày 14 tháng 3 năm 1943 tại miền quê Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, (Cố đô của vương triều Nguyễn). Cha ông, khi ấy là một vị quan cấp thấp trong cung đình. Tuy thân phụ của ông chỉ có ba người vợ chính thức, nhưng bên cạnh đó lại còn những mối quan hệ phức tạp bên ngoài, vì thế không ai biết đích xác cha ông có bao nhiêu người con. Chỉ biết, Phạm Lực là một trong ba người con trai của người vợ thứ hai.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nhà nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”. Tuy nhiên, nước đô hộ khi ấy là Pháp vẫn chưa công nhận Việt Nam là một nước Dân Chủ Cộng Hòa mà chỉ coi nước ta như thuộc địa. Để tránh khỏi thảm cảnh xung đột, mẹ Phạm Lực đã đưa 3 con trai về nương nấu tại quê ngoại (Hà Tĩnh). Mẹ ông cũng chính là cháu gái của đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) – một trong những nhà thơ lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, tác giả của tập truyện thơ “Kim Vân Kiều” viết vào đầu thời Nguyễn.
Ngay từ khi mới 3 tuổi, Phạm Lực đã thể hiện tài năng cũng như tình yêu đặc biệt của mình với hội họa. Khi ấy, đâu đâu cậu bé Phạm Lực cũng vẽ được, từ tường nhà, ngõ xóm cho đến các công trình ở công viên. Tài năng hội họa đặc biệt của Phạm Lực đã sớm được mọi người thừa nhận và thu hút sự chú ý của những người sống xung quanh.
Năm 1959, sau khi tốt nghiệp tiểu học, Phạm Lực được nhận vào khóa 3 năm của Trường Cao đẳng Mỹ thuật tại Hà Nội. Năm 1962, ông tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật với vị trí thủ khoa. Sau đó, ông được giao nhiệm vụ làm việc tại Phòng Văn hóa tỉnh Hà Tây. Tuy nhiên, ông không làm việc ở đây lâu mà sớm được chuyển sang đội công an vũ trang và được phân công làm trong ban điện ảnh quân đội.
Tiếp theo đó, năm 1965, ông nhận nhiệm vụ làm giáo viên hội họa của Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Đây là ngôi trường nơi con em của các cán bộ Đảng và quân đội học tập.
Mùa hè năm 1965, Phạm Lực về nước với tư cách là nhân viên của Tổng cục Chính trị thuộc Trường Thiếu sinh quân và được đưa về Thanh Hóa để thẩm tra tư cách Đảng viên. Lúc bấy giờ, việc thẩm tra tư cách Đảng viên được thực hiện hết sức nghiêm ngặt, để được công nhận chính thức là Đảng viên, phải thể hiện được tinh thần dũng cảm trong thời gian “đấu tranh” hay còn gọi là thời gian thử thách trong 12 tháng.
Trực tiếp quan sát chiến trường Hàm Rồng, Phạm Lực lần đầu tiên trong đời đã trải nghiệm sự khốc liệt và tàn khốc của chiến tranh. Ông cũng chứng kiến cánh máy bay Mỹ bị bắn hạ, cảnh rất đông người chết và người bị thương được thu gom về cùng một nơi. Tại cơ sở thu gom, Phạm Lực có bữa ăn cùng rất đông người khác, nhưng ông đã từ chối ăn khi trước mắt mình là thi thể của những người đã mất. Do vậy, việc vào Đảng của ông bị hoãn một năm.
Năm 1967, Phạm Lực chuyển về làm việc với tư cách là giảng viên nghệ thuật tại Cục Văn tuyên huấn, Tổng cục chính trị. Nhiệm vụ của ông là đến các đơn vị và quân khu theo các khóa học 3 tháng, làm giáo viên dạy những người lính cách vẽ tranh tường và tranh cổ động. Khi đó, “Miền Bắc” (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và “Miền Nam” (Việt Nam Cộng hòa) đang trong tình trạng chiến tranh, với một giới tuyến, thực chất là biên giới giữa hai chính thể, được vạch ra ở Vĩ tuyến 17. Người ta gọi đường ranh giới đó là giới tuyến quân sự.
Phạm Lực đã có thời gian giảng dạy ở Khu IV – quân khu của “Miền Bắc” gần nhất với vĩ tuyến 17. Ngoài ra, ông cũng có thời gian làm việc tại Bộ tư lệnh 559 – đơn vị quản lý tuyến đường mòn bí mật vận chuyển Vật tư và binh Sĩ từ Bắc vào Nam, được gọi là “Đường mòn Hồ Chí Minh”.
Bên cạnh việc hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là một nghệ sĩ quân đội, cũng trong thời gian đó, Phạm Lực vẫn duy trì sự nhạy cảm của một nghệ sĩ độc lập. Trong khi Đường mòn Hồ Chí Minh thời bấy giờ là đối tượng sáng tác trung tâm nhất của các họa sĩ Miền Bắc, Phạm Lực lại chọn cho mình một đề tài theo đuổi riêng.
Trong những năm tháng ấy, đã có một khoảng thời gian nhất định, Phạm Lực từ chối việc vẽ tranh theo những chủ đề đã được giao. Thay vào đấy, bên cạnh việc hoàn thành công việc mang tính nghĩa vụ, Phạm Lực cũng vẽ về những đề tài khác. Ông tận dụng buổi tối cũng như mọi thời gian rảnh rỗi đồng thời tận dụng mọi dụng cụ có thể sử dụng được để vẽ những điều mà mình muốn, vẽ ở mọi địa điểm, dù là tiền tuyến hay hậu phương.
Tranh của Phạm Lực khi đó, dù là những bức tranh khỏa thân nhạy cảm hay về đề tài lãng mạn cũng đều được lột tả hết sức tinh tế. Tại Miền Bắc vào thời điểm đó, tuy những đề tài tương tự không được khuyến khích, cũng không bị cấm đoán, song việc công bố thì lại bị nghiêm cấm. Đối với một cán bộ quân đội lại là Đảng viên như Phạm Lực, cuộc sống hai mặt với một mặt là người nghệ sĩ đi kèm với rất nhiều rủi ro. Do đó, Phạm Lực đã hết sức lưu ý giữ gìn những bức tranh đó, chỉ đưa ra xem đối với những người bạn thực sự tin cậy và được lựa chọn kỹ càng.
Bên cạnh đó, vải và màu vẽ khi đó do Liên Xô và Trung Quốc cung cấp nên rất thiếu thốn, Phạm Lực cũng không còn cách nào khác là phải luôn nỗ lục tìm kiếm những vật dụng có thể sử dụng. Đế vẽ được, ông phải trưng dụng bao gạo đã rỗng, cố gắng vẽ tranh bằng tất cả những gì có trong tay. Có những lúc, ông phải thử dùng cả đầu bẩn còn sót các bình xăng thay cho màu đen. Phạm Lực đã là một họa sĩ với căn tính ưa thích việc vẽ tranh một cách hết sức bản năng như vậy.
Năm 1972, ông tham gia một khóa đào tạo về hội họa ở cấp đại học và tốt nghiệp năm 1977. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 – ngày Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Phạm Lực khi đó đang tham gia một khóa bồi dưỡng ở Quân khu 4 thuộc tỉnh Nghệ An. Phạm Lực nói ông nhớ rất rõ cảm xúc ở thời điểm đó. Đó là thứ cảm xúc sung sướng và được giải thoát, vì từ giờ ông có thể về Hà Nội, có thể gặp gỡ thường xuyên hơn mẹ mình vốn sống ở vùng ngoại ô Hà Nội, cũng như gặp lại biết bao người mà lâu lắm ông không được gặp.
Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, ông đã được đến Thủ đô Sài Gòn của Miền Nam Việt Nam – vốn trước đó là quốc gia đối địch, trong một chuyến đi chính thức. Dọc đường, ông đã tạt qua Cố đô Huế ở Miền Trung và gặp lại cha mình. Mấy tháng trước đó, cha ông đã gửi một lá thư về quê ông ở Hà Tĩnh để liên lạc với mẹ con Phạm Lực. Trong lá thư đó, cha ông đã ghi lại địa chỉ của mình ở Huế. Khoảnh khắc bước vào cửa, gặp lại cha mình và những người anh chị em họ đã đẩy lên trong tâm khảm Trung tá Phạm Lực một cảm xúc rất lẫn lộn, vừa vui mừng nhưng cũng có chút sợ hãi.
Đó là vì trong gia đình ông, không phải tất cả mọi người đều cảm thấy hạnh phúc với chiến thắng của phe Miền Bắc, cũng không phải tất cả mọi người trong gia đình ông đều cảm thấy tự hào khi đón tiếp một thành viên đang mang trên mình bộ quân phục cán bộ Quân đội Nhân dân của quân đội Miền Bắc. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, tình cảm huyết thống đã vượt qua quan điểm chính trị. Phạm Lực đã giải tỏa được sự e ngại ban đầu với những người anh chị em họ và nhanh chóng trở nên thân thiết. Sau đó, một người anh chị em họ của Phạm Lực do là binh sĩ Miền Nam nên bị đưa vào trại cải tạo. Phạm Lực đã đứng ra viết đơn bảo lãnh đề người thân được phóng thích.
Năm 1976, Phạm Lực kết hôn lần đầu tiên. Giữa ông và người vợ đâu tiên có ba người con, hai con gái và một con trai. Tuy nhiên, sau đó, hai người đã ly hôn, đến năm 1989, ông tái hôn cùng một phụ nữ Pháp, François Flane. Tuy nhiên, giữa hai người không có con chung. Vợ thứ hai của ông là một cán bộ của UNICEF, sau khi văn phòng Việt Nam bị đóng cửa, bà đã trở về Pháp. Hiện tại, ông đang sống với bà Allison Cargill, giáo viên Mỹ thuật trường Quốc tế Anh tại Hà Nội. Bà cũng là người say mê những tác phẩm hội họa của Phạm Lực và đem lòng yêu ông.
Phạm Lực làm việc trong quân đội đến năm 1989. Năm 1979, khi xảy ra Chiến tranh Trung – Việt, ông đã làm việc tại khu vực biên giới với Trung Quốc với công việc tương tự như dưới thời Chiến tranh Việt Nam là dạy những người lính cách vẽ các bức tranh tường. Phạm Lực xuất ngũ với vị trí Đại tá. Mặc dù làm việc trong quân đội trong một khoảng thời gian dài cũng như đã có những cống hiến nhất định, nhưng Phạm Lực không được tặng thưởng bất cứ một huy chương hay huân chương nào.
Phạm Lực giải thích rằng đó là vì ông chưa một lần nào viết đơn xin huân chương hay huy chương. Tóc dài và để ria là hai điều cấm kị trong quân đội, nhưng Phạm Lực đã không thay đổi phong cách của mình. Vì vậy, ông cũng không dám đến các buổi hội họp vinh danh các cán bộ chiến sĩ khi còn tại ngũ.
Phạm Lực đã vẽ hàng vạn bức tranh, nhưng ông hầu như chưa bao giờ đưa tác phẩm của mình tham dự các cuộc thi hay triển lãm chính thức được tổ chức bởi các đoàn thể như Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Khát vọng nâng tầm du lịch và di sản là văn hoá chia sẻ giá trị trong văn hoá doanh nghiệp nhà LuxGroup
Khát vọng nâng tầm du lịch và di sản là văn hoá chia sẻ giá trị trong văn hoá doanh nghiệp nhà LuxGroup
Người Đưa Tin: Bài phỏng vấn ông Phạm Hà – Chủ tịch CEO LuxGroup với triết lý lấy văn hoá dân tộc là ngọn hải đăng soi đường, kinh doanh phụng sự tử tế, có bản sắc văn hoá doanh nghiệp riêng, phát triển bền vững, mang lại hạnh phúc từ tâm.
Xây dựng hình ảnh, thương hiệu doanh nghiệp dựa trên câu chuyện lịch sử của dân tộc, ông Phạm Hà – Chủ tịch LuxGroup (www.luxgroup.vn) cho rằng mỗi một quốc gia dân tộc đều có bản sắc riêng, chính bản sắc đó tạo ra sự khác của mình và thế giới.
“Nếu làm theo hướng du thuyền hiện đại, sang trọng thì ở đâu cũng có và thậm chí họ làm trước và tốt hơn rất nhiều.
Khát vọng nâng tầm và hồi sinh di sản
Nhưng một du thuyền cảm hứng từ quá khứ, từ câu chuyên cụ Bạch Thái Bưởi (1874-1932), xây dựng con tàu chở những tinh hoa văn hoá Việt Nam, những giá trị tinh thần của người Việt thì du khách phải đến Việt Nam mới có thể trải nghiệm”, ông Hà cho hay.
Đại diện doanh nghiệp cũng cho rằng, đây chỉ là những câu chuyện rất nhỏ trong hàng nghìn những chất liệu dân gian, di sản của Việt Nam. “Nhưng cần phải được nâng tầm, chúng ta không “ăn mày” di sản mà thay vào đó nâng tầm chúng ở mức độ cao hơn, phù hợp với nhu cầu của du khách”, ông Phạm Hà chia sẻ.
Đặc biệt sau đại dịch, hình ảnh, sản phẩm du lịch của Việt Nam đã dần thay đổi, khi hiện nay khách hàng quan tâm đến thân – tâm – tuệ.
Ông Phạm Hà đánh giá: “Chúng ta cũng đang hướng những sản phẩm mạnh về thế chất, lành về tinh thần. Du khách cần những trải nghiệm nhiều cảm xúc, họ đi theo nhóm nhỏ, quan tâm đến riêng tư, giá trị truyền thống gia đình, tour chăm sóc sức khoẻ toàn diện”.
Tuy hiểu rõ nhu cầu của khách hàng, những đại diện doanh nghiệp cũng đồng tình cho rằng truyền thông du lịch của Việt Nam còn nhiều hạn chế. “Có nhiều lý do, nhưng rõ ràng chúng ta phải nhìn nhận việc ngân sách dành cho du lịch còn ít và chưa có cơ quan chuyên trách để xúc tiến du lịch để tìm ra được một chiến dịch chung.
Đây là lúc làm mới hình ảnh nhưng chưa ai làm, cái gì là điểm khác biệt chúng ta chưa có. Nếu không định vị được điểm mạnh thì rất dễ loay hoay mặc dù chúng ta có rất nhiều di sản”, ông Phạm Hà chia sẻ.
Văn hoá sở hữu tại LuxGroup
Doanh chủ như ông Phạm Hà trăn trở phát triển kinh tế du lịch quốc gia, kinh doanh tử tế, mang lại thành công và hạnh phúc cho cá nhân, nhân viên, khách hàng, cộng đồng xã hội. Văn hoá doanh nghiệp là sức mạnh LuxGroup, những giá trị chia sẻ nâng tầm du lịch và di sản.
Hành trình gây dựng cơ đồ lấy văn hoá làm nguồn lực đầu vào phát triển kinh tế, LuxGroup và thực hiện những khát vọng, đam mê lớn của doanh chủ Việt Nam luôn gắn với các giá trị văn hoá, nâng tầm di sản, vinh danh giá trị con người Việt Nam xưa và nay. Nêu cao tinh thần tự tôn dân tộc, có bản sắc, sống phong cách và kinh doanh tử tế, phụng sự đồng bào, có văn hóa là sống có trách nhiệm, thành tín và đạo nghĩa.
Nâng tầm doanh nghiệp bằng dịch vụ xuất sắc bằng dịch vụ từ tâm, Lux tự hào về chất lượng, đẳng cấp và khác biệt độc đáo. Ông Phạm Hà cho rằng, nếu chỉ đầu tư cho sản phẩm thì chỉ có thể thu hút khách đến lần đầu, còn việc khách có lưu lại ở lâu ngày, hoặc có quay trở lại hay không thì dịch vụ từ tâm, chạm cảm xúc là yếu tố tiên quyết. Đại diện LuxGroup tự hào là tập đoàn tư nhân đầu tiên tuyên bố quyền khách hàng 100% thoả mãn.
Doanh chủ tạo ra những cái mới chưa có trước đó, tạo ra cái đẹp, con đường kinh doanh riêng, tạo giá trị nhân văn cho cộng đồng, xã hội; là sống không chỉ làm giàu cho mình mà còn gắn với hạnh phúc của người lao động, cao hơn là gắn với sự cường thịnh của quốc gia, dân tộc để Việt Nam có thể ra biển lớn với niềm tự hào, tự tôn dân tộc và kiêu hãnh quốc gia.
Lần đầu tiên du thuyền Việt Nam mang phong cách boutique được đề cử tốt nhất thế giới
Heritage Cruises của hãng du thuyền hạng sang Lux Cruises được World Cruise Awards 2923 đề cử cho giải du thuyền boutique tuyệt vời nhất thế giới năm 2023 – World’s Best Boutique Cruise Line 2023.
[Hà Nội, Việt Nam – ngày 16 tháng 6 năm 2023] – Du thuyền Heritage Bình Chuẩn, du thuyền mang phong cách boutique đầu tiên tại Việt Nam hồi sinh di sản, một trải nghiệm du thuyền đặc biệt được truyền cảm hứng từ huyền thoại Bạch Thái Bưởi, người được mệnh danh là “vua tàu thuỷ”, vừa được World Cruise Awards 2023, giải Oscar của nghành du lịch thế giới đề cử cho danh hiệu “Du thuyền boutique tuyệt vời nhất thế giới năm 2023”. Sự công nhận uy tín này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khi Heritage Cruises lần đầu tiên nhận được đề cử cho giải thưởng quốc tế danh giá này.
Ra mắt vào năm 2019, Du thuyền Heritage Cruises được tạo ra bởi Phạm Hà, nhà sáng lập và CEO tầm nhìn của tập đoàn LuxGroup, với mục tiêu vinh danh Bạch Thái Bưởi và khơi dậy di sản văn hóa phong phú của Việt Nam. Phạm Hà, cùng với toàn bộ đội ngũ và sức mạnh văn hóa doanh nghiệp của đơn vị thành viên Lux Cruises, tự hào với đề cử xứng đáng này.
Heritage Bình Chuẩn là du thuyền đầu tiên mang thương hiệu Heritage Cruises trong dự án 30 chiếc hoạt động khắp Việt Nam, với 20 phòng sang trọng có thể chứa đến 60 hành khách, Du thuyền Heritage tự hào với tỷ lệ nhân viên so với khách hàng đặc biệt là 1:1, đảm bảo dịch vụ cá nhân và chu đáo trong suốt hành trình. Hãng du thuyền chuyên về các chuyến du ngoạn từ 1 đến 3 đêm trên Vịnh Bắc Bộ, tập trung đặc biệt vào vịnh Lan Hạ hấp dẫn và quần đảo Cát Bà quyến rũ.
Du thuyền Hẻitage Bình Chuẩn đã được vinh danh bằng nhiều giải thưởng quốc tế và trong nước, khẳng định cam kết về chất lượng xuất sắc và củng cố thêm danh tiếng của hãng du thuyền boutique hàng đầu này. Những thành công này là minh chứng cho sự tận tâm không dao động của công ty trong việc mang đến trải nghiệm du thuyền tuyệt vời để các lữ khách đường xa tìm tòi, khám phá, học hỏi, tôn vinh, trân quý di sản, tận hưởng kỳ nghỉ trên miền di sản.
Thuật ngữ “du thuyền boutique” ám chỉ đến loại hình du thuyền mang đến sự tiếp cận gần gũi và cá nhân hơn so với các tàu du lịch lớn và phổ biến hơn. Được mượn từ ngành bán lẻ, nơi thường miêu tả các cửa hàng nhỏ, phong cách và chuyên môn cung cấp các sản phẩm độc đáo và được tổ chức, khái niệm du thuyền boutique tập trung vào sự độc quyền, chú trọng chi tiết và không gian nhỏ hơn và gần gũi hơn. Những du thuyền này thường có tàu nhỏ với số phòng hay suite hạn chế, mang đến cho khách hàng trải nghiệm cá nhân hóa và tùy chỉnh. Sự tập trung thường là đảm bảo dịch vụ chất lượng cao, hành trình đắm chìm và các tiện nghi độc đáo.
Du thuyền boutique mang đến nhiều tính năng khác nhau, bao gồm trải nghiệm ẩm thực tinh tú, chỗ ở xa xỉ, dịch vụ cá nhân từ đội ngũ phục vụ chuyên dụng và các hoạt động hoặc chuyến tham quan độc đáo. Thường hướng tới các quan tâm hoặc chủ đề cụ thể như khám phá văn hóa, phiêu lưu hoặc thư giãn, mục tiêu là thiết lập một mối liên kết gần gũi và hoà mình vào điểm đến.
Theo đại diện của hãng, mười đặc điểm hàng đầu của du thuyền boutique như Du thuyền di sản Heritage Bình Chuẩn: Kích thước, Cá tính, Thiết kế, Tính cách, Văn hóa, Dịch vụ, Ẩm thực, Khách hàng, Cảm nhận về một địa điểm, chân thực và độc đáo của trải nghiệm.
Với việc bỏ phiếu cho giải thưởng Du thuyền boutique tốt nhất thế giới năm 2023 được bắt đầu từ ngày 14 tháng 6 đến ngày 15 tháng 9, những người đam mê du thuyền và du khách trên toàn thế giới có cơ hội bỏ phiếu. Đêm gala và lễ trao giải được mong chờ sẽ diễn ra tại Dubai vào ngày 15 tháng 10 năm 2023, nơi người chiến thắng sẽ được tiết lộ và vinh danh.
Để ủng hộ Du thuyền Heritage và bỏ phiếu của bạn, vui lòng truy cập https://worldcruiseawards.com/award/world-best-boutique-cruise-line/2023
Dưới sự lãnh đạo tầm nhìn của Phạm Hà, công ty đã thực hiện ước mơ thời thơ ấu của ông về việc trưng bày vẻ đẹp của Việt Nam từ Bắc vào Nam bằng việc xây dựng 30 chiếc tàu đi dọc theo bờ biển Việt Nam. Để biết thêm thông tin về Du thuyền Heritage, vui lòng truy cập www.heritagecruises.com.
Về Du thuyền Heritage:
Thuộc sở hữu của Lux Cruises, Du thuyền Heritage là một hãng du thuyền boutique tại Việt Nam mang đến trải nghiệm đi biển độc đáo và đắm mình. Ra đời vào năm 2019 để vinh danh Bach Thai Buoi, vua của các con tàu, Du thuyền Heritage tái hiện di sản văn hóa phong phú của Việt Nam thông qua những chuyến hải trình được chế tác tỉ mỉ. Với sự nhấn mạnh về sự xuất sắc và dịch vụ cá nhân hóa, Du thuyền Heritage đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế và trong nước
Sáng lập CEO LuxGroup: Con người tài năng, có tâm, phù hợp văn hoá là vốn quý của doanh nghiệp
Kinh doanh tử tế, chính đạo doanh chủ, chú trọng trải nghiệm khách hàng nội bộ, văn hoá doanh nghiệp, thoả mãn khách hàng bên ngoài doanh nghiệp là bí mật thành công của thương hiệu dẫn đầu sang trọng gần 20 năm tại Việt Nam.
Theo ông Phạm Hà, nhà sáng lập CEO LuxGroup, du lịch giờ đây tất cả là điểm đến trải nghiệm và ký ức. Dịch vụ sang trọng là hàm tổng của thái độ, phục vụ nâng tầm nghệ thuật và quy trình quy chuẩn hiệu quả. Hiện nay trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt về nhân sự và trải nghiệm du lịch, với các sản phẩm gần như giống nhau hoàn toàn từ điểm đến, khách sạn, nhà hàng,… văn hoá doanh nghiệp, đội ngũ nhân sự tài năng và thấm đẫm văn hoá doanh nghiệp, sẽ là mấu chốt tạo nên sự tự hào, doanh nghiệp thành công và hạnh phúc.
‘Trải nghiệm nhân viên, văn hoá doanh nghiệp và khách hàng làm trung tâm, dẫn đầu sang trọng, độc đáo và trải nghiệm wow, LuxGroup tuyên bố quyền khách hàng 100% hài lòng. Chính con người làm lên sự khác biệt độc đáo, phục vụ từ tâm, chạm vào cảm xúc du khách trong từng khâu quy trình, là bí mật thành công của thương hiệu du lịch sang trọng đầu tiên của Việt Nam từ gần 20 năm qua”. Ông Phạm Hà tự hào cho biết.
Ông Phạm Hà cho biết kinh doanh du lịch, du thuyền là một thị trường mở, tạo ra sản phẩm tốt và khác biệt đã khó, trải nghiệm khác biệt độc đáo còn khó hơn nhiều, có bản sắc, đóng đinh thương hiệu doanh nghiệp thì ít doanh nghiệp đầu tư bài bản, đam mê, trí tuệ, ghi dấu ấn trong lòng du khách với nhiều cảm xúc và trải nghiệm. Du khách muốn tìm tòi, mộng mơ, khám phá, tận hưởng, thư giãn và hoà mình vào văn hoá và thiên nhiên.
Chính văn hoá doanh nghiệp, chính
Luxer là sự khác biệt độc đáo, luôn tiên phong dẫn đầu, yếu tố con người thì không thể sao chép của nhau nên doanh nghiệp nào xây dựng được đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp, có năng lực, thái độ, các kỹ năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, tận tâm, hiếu khách sẽ tạo được sự khác biệt, giành lợi thế trong ngành công nghiệp xanh này.
Những trải nghiệm sáng tạo trên những vịnh biển đẹp nhất Việt Nam như Nha Trang, Hạ Long, Bái Tử Long và Lan Hạ, với hai thương hiệu Emperor Cruises và Heritage Cruises, thuộc Lux Cruises Group đều giầu cảm xúc cho thân tâm tuệ. Những bộ sưu tập Luxury Travel, Secret Hideaway Collection, SO Lux, Lux X Signatures những sản phẩm đóng đinh thương hiệu, Adventura Travel chuyên tour mới năng động và mạo hiểm, hay Lux Travel Dmc chuyên cung cấp các trải nghiệm du lịch cao cấp, siêu sang trọng và thửa theo yêu cầu, mỗi ngày là một trải nghiệm đo ni đóng giầy theo sức khoẻ và sở thích, chân thực và độc đáo, gặp gỡ bản địa, thưởng thức ẩm thực tại nhà hàng với đầu bếp riêng hay wow bất ngờ đáng nhớ.
Chiến lược tăng trưởng hình tam giác của Group là thương hiệu, nghiên cứu và phát triển sản phẩm cho đúng chân dung khách hàng tiềm năng. Tập đoàn của những tí hon vĩ đại này không có phòng marketing và phòng nhân sự mà có phòng phát triển kinh doanh và tăng trưởng và phòng tài năng và văn hoá doanh nghiệp.
LuxGroup quan niệm rằng chất lượng không tự nhiên mà có, đó luôn là kết quả của sự chú tâm, cố gắng hết mình, chỉ đạo thông minh và chuẩn mực các kỹ năng chuyên về môn nghiệp vụ, chất lượng phải là lựa chọn thông minh nhất trong số các giải pháp
“Luxers chúng tôi thiết kế và đầu tư ra sản phẩm chất lượng, dịch vụ từ tâm, lấy khách hàng làm trung tâm và đều tâm niệm một ông chủ duy nhất của tập đoàn là khách hàng và chúng tôi là Cty lữ hành đầu tiên tại Việt Nam tuyên bố quyền khách hàng. Chúng tôi tạo sự khác biệt từ một đội ngũ nhân viên trẻ trung, năng động, sáng tạo, sử dụng tốt tiếng Anh cùng 6 ngôn ngữ phương Tây thông dụng khác. Môi trường doanh nghiệp cũng được xây dựng theo hướng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và chú trọng xây dựng để cùng phát triển”, ông Phạm Hà tâm sự.
Do đặc thù hoạt động trong ngành du lịch và dịch vụ nên tuổi đời tuổi nghề của đội ngũ nhân viên tại LuxGroup đa phần là người trẻ. Chúng tôi trao quyền cho phụ nữ và trao quyền cho người trẻ có năng lực kinh doanh chính đạo, tuân theo sứ mệnh doanh nghiệp kinh doanh bền vững và có trách nhiệm, đam mê, mục tiêu rõ ràng, vì con người, bền vững và lợi nhuận. Vị CEO nhiều năng lượng và sáng tạo này cho rằng đây là một lợi thế cho doanh nghiệp tuyển dụng liên tục, đào tạo liên tục tìm người phù hợp và nếu biết đặt niềm tin vào tài năng trẻ, phát huy sự năng động và nhiệt huyết để đưa ra những ý tưởng kinh doanh mới mẻ, sáng tạo nhưng vẫn có tính thực thi tốt.
So với con số chỉ một người, một Cty, một máy tính, một giấc mơ du thuyền và du lịch sang trọng nâng tầm du lịch Việt Nam vào năm 2005, đến nay sau 18 năm LuxGroup đã phát triển thành tập đoàn hoạt động ở nhiều quốc gia trên thế giới với hơn 300 nhân viên hoạt động trong các lĩnh vực du lịch lữ hành, khách sạn, du thuyền, xe du lịch, phục vụ 50.000 khách năm, tăng trưởng 2 con số, vượt nghịch cảnh Covid 19 ngoạn mục nhất và đón khách đầu tiên khi Việt Nam mở cửa du lịch trở lại ngày 15 tháng 3 năm 2022. LuxGroup cất cánh bằng du lịch nội địa và quốc tế. Văn hoá đa dạng và nhiều quốc tịch nên tiếng Anh là ngôn ngữ chính thống.
Do vậy để tạo được cầu nối thống nhất, tiếng Anh đã được yêu cầu thành tiêu chuẩn giao tiếp bắt buộc cho các thành viên trong tập đoàn. Điều này không chỉ giúp văn hóa doanh nghiệp được truyền tải một cách nhất quán tại tất cả các chi nhánh đa quốc gia, nhân viên có thể giao tiếp và hiểu khách hàng thấu đáo mà còn mở ra cơ hội thu hút nhân tài nước ngoài về làm việc cho công ty, tối ưu hóa chính sách bản địa nhân sự.
Nhân viên công ty hàng năm đều phải trải qua các chương trình huấn luyện 7 ngày chuyển đổi nhân tâm, 6 điểm chạm, 6 mức độ hài lòng, 10 quy định nhà luxers, văn hoá doanh nghiệp, phục vụ từ tâm, thứ 6 học tập liên tục các kỹ năng, đào tạo kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ để đáp ứng tốt nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng. Kèm theo đó là chính sách tuyển dụng nhân sự chuyên nghiệp, trả theo năng lực, có lộ trình thăng tiến, minh bạch với các chế độ đãi ngộ tương ứng với cống hiến của từng người.
Ông Phạm Hà đánh giá nguồn nhân lực có năng lực, cón tâm, tuân thủ văn hoá doanh nghiệp là đòn bẩy để doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thực hiện các mục tiêu chiến lược của mình. Do vậy cần hiểu rõ đặc thù môi trường kinh doanh, mô hình, quy mô hoạt động mà doanh nghiệp xây dựng chiến lược nhân lực phù hợp. Chiến lược này cần được triển khai đồng bộ với chiến lược kinh doanh trong từng giai đoạn khác nhau và nhất là #together phục hồi cùng nhau 2023 là từ khoá của năm.
“Điều quan trọng là phải tạo được môi trường vui vẻ, tin tưởng, tử tế, liêm chính, thành công, hạnh phúc và thịnh vượng chung. Một không gian làm việc nghệ thuật, nhiều tranh quý triệu đô được treo trên tường, làm việc bình đẳng để mọi nhân viên có thể thấy được mình cũng đóng vai trò là một mắt xích quan trọng trong chuỗi vận hành của toàn hệ thống. Mọi người trong tập đoàn, từ nhân viên bảo vệ, người lái xe, hướng dẫn viên, lễ tân đều có cơ hội thể hiện ý kiến cá nhân với các lãnh đạo cấp cao, xóa bỏ sự ngăn cách, tạo một tập thể phát triển tốt và phục vụ ông chủ duy nhất của doanh nghiệp và nỗ lực từng ngày làm vừa lòng những lữ khách dù khó tính nhất”. ông Phạm Hà nhấn mạnh.
20 giải thưởng cho 18 năm hoạt động, Lux Travel Dmc, một thành viên LuxGroup đã vinh dự đoạt giải Oscar nghành du lịch World Travel Awards 2022.
Kể chuyện di sản văn hóa Việt Nam bằng ngôn ngữ du lịch trải nghiệm
Để du khách có thể ‘chạm’ vào văn hóa Việt Nam tinh tế và sâu sắc qua câu chuyện du thuyền Heritage Bình Chuẩn, cảm hứng từ di sản Bạch Thái Bưởi.
Đất nước Việt Nam chúng ta có mỏ vàng di sản quý giá cho phát triển du lịch di sản văn hoá, trải nghiệm giá trị, độc đáo, giầu cảm xúc và đáng nhớ.
Đến Việt Nam, du khách không ngừng tìm kiếm những trải nghiệm mới mẻ và độc đáo, không ngừng khám phá văn hóa bản địa và hòa cùng với người dân để được tận hưởng vẻ đẹp của đất nước, con người nơi đây. Điều này cho thấy chinh di sản văn hóa Việt Nam sẽ làm nên những điều khác biệt trong hành trình du lịch trải nghiệm của mỗi du khách. Du lịch Việt Nam có thể định vị là điểm đến di sản hàng đầu Châu Á.
Du lịch di sản là một phần của du lịch văn hóa. Theo định nghĩa của Tổ chức Bảo tồn Di sản Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ, “Du lịch di sản văn hóa là du lịch để trải nghiệm điểm đến, hiện vật, các hoạt động thể hiện chân thực những câu chuyện và con người xưa và nay, nó bao gồm văn hóa, lịch sử và tài nguyên thiên nhiên”.
Di sản thiên nhiên – đường thủy, cảnh quan, rừng cây, đầm lầy, vùng cao, động vật hoang dã bản địa, côn trùng, thực vật, cây cối, chim và động vật. Di sản hữu hình – các di tích lịch sử, tòa nhà, tượng đài, đèn biển, hiện vật trong viện bảo tàng và kho lưu trữ… Di sản phi vật thể – phong tục tập quán, thể thao, âm nhạc, khiêu vũ, văn hóa dân gian, câu chuyện, hàng thủ công mỹ nghệ, kỹ năng và kiến thức bản địa.
Hiện cả nước có khoảng 40.000 di tích được kiểm kê. Trong đó, hiện có khoảng 10.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, thành phố; trên 3.460 di tích cấp quốc gia; 107 di tích quốc gia đặc biệt, 164 bảo vật quốc gia. Có 8 di sản được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới và 14 di sản được UNESCO công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO, Việt Nam có 7 Di sản tư liệu được UNESCO ghi danh. Ngoài ra, Việt Nam còn có 9 Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Di sản thế giới tại Việt Nam đã được UNESCO công nhận có đủ cả ba loại hình: di sản thiên nhiên thế giới, di sản văn hóa thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Trong hệ thống các danh hiệu của UNESCO, di sản thế giới là danh hiệu danh giá nhất và lâu đời nhất. Du lịch ở nước ta ngày càng phát triển và thu hút khách tham quan trong và ngoài nước. Đặc biệt là những khu du lịch được UNESCO công nhận.
Lux Group tổ hợp các công ty tí hon vĩ đại, chuyên tâm đầu tư xây dựng và thiết kế vào các sản phẩm du lịch trải nghiệm, du lịch di sản signature, và thửa theo yêu cầu. Các du thuyền như Emperor Cruises hay Heritage Bình Chuẩn chúng tôi đều phát triển từ những câu chuyện di sản thành sản phẩm du lịch trải nghiệm một cách tinh tế và hấp dẫn. Sắp tới chúng tôi đưa vào hoạt động Emperor Cruises Legend Phú Quốc. Kế tiếp thành công chúng tôi phát triển thương hiệu mới Secret-Hideaways Pù Luông, cảm hứng từ thơ Tây Tiến Quang Dũng.
Chúng tôi tâm niệm rằng bí quyết thành công đằng sau mỗi dự án chính là niềm đam mê, tận tâm và cống hiến. Đơn giản là đẹp là sang, chúng tôi coi trọng những yếu tố văn hoá di sản, nét trang nhã tạo ra tính chân thực và độc đáo của trải nghiệm. Du thuyền Heritage Cruises là thương hiệu rất được du khách và lữ hành chào đón, tạo tiếng vang ngay khi ra đời, đây là du thuyền mang phong cách boutique độc đáo, đậm chất nghệ thuật, tinh tế đến từng chi tiết. Du thuyền là điểm đến thú vị cho hành trình khám phá trải nghiệm trên Vịnh Bắc Bộ và Sông Hồng.
Lữ khách không ngừng tìm kiếm những trải nghiệm “mới lạ và khác biệt độc đáo”, thấu hiểu khách hàng cao cấp nên chúng tôi đã phát triển du thuyền nhỏ trên vịnh. Mười đặc điểm hàng đầu của du thuyền boutique như Du thuyền Heritage Bình Chuẩn: Kích thước, Cá tính, Thiết kế, Tính cách, Văn hóa, Dịch vụ, Ẩm thực, Khách hàng có văn hóa, để cảm nhận về một điểm đến trọn vẹn, tính chân thực và độc đáo của trải nghiệm.
Lấy khách hàng làm trung tâm, thoả mãn họ, chúng tôi tập trung vào tiện nghi, tôn trọng không gian riêng tư dành cho du khách với 20 phòng Suites (33-80m2), rộng rãi, sang trọng, có ban công riêng, hướng biển và du khách có thể ngắm kỳ quan thiên nhiên từ bất kỳ chỗ nào trong phòng. Chúng tôi muốn mỗi khoảnh khắc đều trân quý, đáng để lưu giữ ký ức đẹp của cuộc đời.
Chúng tôi chú trọng toàn vào bộ trải nghiệm thực sự ấn tượng và khác biệt độc đáo, bắt nguồn từ việc kết hợp hài hòa giữa con người, tinh hoa văn hoá bản địa và những nét đẹp hoang sơ cùng với dịch vụ hoàn hảo cá nhân hoá cao – tất cả yếu tố này hoà quyện nhau tạo nên kỷ niệm đẹp của hành trình khám phá, trải nghiệm trên Heritage Cruises.
Sứ mệnh hồi sinh di sản văn hoá hữu hình và vô hình Bình Chuẩn (1919-2019) và những tư tưởng và bài học thực nghiệp một quý tộc Việt, đó là cụ Bạch Thái Bưởi (1874-1932), thành tín đạo nghĩa và trách nhiệm, viết tiếp giấc mơ du thuyền made-in-Vietnam ra biển lớn, “dân quốc phú cường”.
Khi nhận định về cụ, hội Khai Trí Tiến Đức cho rằng: Cụ là một bậc vĩ nhân đất Bắc, một bậc trượng phu nơi thương trường mà cuộc đời của Cụ đáng phô bầy cho quốc dân, sự nghiệp của Cụ đáng làm gương cho các nhà buôn bán noi theo. Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố trong Hội truyền bá chữ quốc ngữ viết về Bạch Thái bưởi trong tạp chí Đông Thanh: Bậc anh hùng kinh tế thứ nhất trong kinh tế giới nước nhà.
Từ góc độ tiếp cận văn hoá di sản để xây dựng câu chuyện, sống lại di sản tàu Bình Chuẩn và triết lý kinh doanh tử tế của doanh nhân dân tộc Bạch Thái Bưởi, tên tàu, từ thiết kế logo có tính biểu trưng ý nghĩa kể chuyện, tới các hoạ tiết mang tinh hoa văn hoá Bắc Bộ, các địa danh lịch sử của vùng đất, nước, tên các con tàu, chúng tôi lấy lại tên tàu Bình Chuẩn (tôi đóng mới, hạ thuỷ, đưa vào vận hành sau đúng 100 năm).
Heritage Bình Chuẩn kể câu chuyện văn hoá, lịch sử, mỹ thuật (hoạ sĩ triệu đô với 100 bức tranh Phạm Lực kỷ niệm 100 năm tàu Bình Chuẩn), thời trang, ẩm thực, kiến trúc những năm 30 thế kỷ trước và chúng tôi cũng hoà quyện thêm yếu tố đương đại để tôn vinh di sản văn hoá, con người, vùng nước, vùng biển mà các con tàu (trong số 30 chiếc) ngược xuôi ngọn nguồn các con sông Bắc Kỳ, vịnh Bắc Bộ và cận duyên Việt Nam từ Hải Phòng vào Sài Gòn hồi đầu thế kỷ 20.
Với du khách Việt Nam, chúng tôi mang gần hơn, kể câu chuyện lịch sử tàu Made-in-Vietnam đầu tiên của tiền nhân, để mọi người chạm được vào di sản phi vật thể trên hành trình khám phá di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, Lan Hạ. Một giấc mơ người Việt đang được viết tiếp trên hành trình giấc mơ du thuyền Việt Nam ra biển lớn, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, chúng tôi vinh danh di sản Việt Nam và con người Việt Nam.
Du khách nước ngoài được khám phá sự giầu có văn hóa Việt Nam, được đánh thức 5 giác quan và giác quan thứ 6 là cảm nhận văn hoá di sản ở một nơi di sản thiên nhiên đẹp nhất thế giới. Du khách khám phá mỹ thuật, “đọc” các bưu ảnh cổ, tận hưởng ẩm thực fine-dining trên không gian hoài niệm bồng bềnh giữa kỳ quan, nghe câu chuyện lịch sử người xưa khởi nghiệp, tận hưởng kỳ nghỉ du thuyền sang trọng với nhiều tiện ích, thư giãn và trải nghiệm kỳ nghỉ biển xanh, cát trắng nắng vàng, thăm quan làng chài 5000 năm tuổi Cài Bèo, hoà mình vào di sản văn hoá và thiên nhiên để lưu khoảnh khắc, giữ kỷ niệm.
“Một du thuyền di sản văn hoá đưa lữ khách khám phá kỳ quan thiên nhiên thế giới. Cái đó thế giới không có, chỉ Việt Nam mới có”. Đúng như nhà sử học Dương Trung Quốc nói khi viết về sự độc đáo của Heritage Bình Chuẩn. Chúng tôi không chỉ tạo ra thương hiệu mà tạo ra trào lưu “người Việt Nam đi du thuyền”, Heritage Bình Chuẩn là du thuyền chạy nhiều nhất vịnh Bắc Bộ 2 năm Covid và được du khách trong và ngoài nước yêu thích nhất, nhiều giải thưởng và tạp chí sang trọng nước ngoài vinh danh “tuyệt tác kỳ quan”. Câu chuyện thành công của Heritage Bình Chuẩn còn là thực nghiệp, kinh doanh tử tế, “bài học hay các nhà buôn noi theo” trích Nam Phong Tạp Chí.
Hãy khám phá, học hỏi, tôn trọng, vui chơi và tận hưởng!
Ông Phạm Hà là Chủ tịch kiêm CEO Lux Group (www.luxgroup.vn) và là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực du lịch sang trọng. Ngoài lĩnh vực kinh doanh, ông còn là một người say mê sưu tập tranh, đồ cổ, viết báo về thương hiệu, kinh tế, quản trị kinh doanh và sách về di sản văn hóa, lịch sử và mỹ thuật.
Quản trị tài năng và văn hoá doanh nghiệp theo phong cách Vua Tàu Thuỷ Bạch Thái Bưởi
Sử dụng nhân tài và phát huy văn hoá doanh nghiệp của doanh chủ dân tộc và quý tộc Bạch Thái Bưởi dưới góc nhìn quản trị doanh nghiệp thời hiện đại.
“Một cái gương cho thương giới nước ta”. Đó là tựa đề bài viết của tác giả Thượng Chi, bút danh của nhà nho học giả Phạm Quỳnh (1892-1945), đăng trên Nam Phong Tạp Chí – số 28, từ trang 318, xuất bản tháng 12 năm 1919 tại Hà Nội, ví nhà công nghiệp Bạch Thái Bưởi (1874-1932) sánh tầm “vua bể”, “vua thép” Âu Mỹ cùng thời. Nhờ có bài báo này mà chúng ta biết cụ thể cơ ngơi hoành tráng và sự nhộn nhịp tại các các sở tàu và nhà máy đóng tàu Giang Hải Luân Thuyền Bạch Thái Công Ty hay gọi tắt là Bạch Thái Công Ty tại Hải Phòng lên tới 1000 người, chia ra nhân viên làm bàn giấy văn phòng và thợ làm dưới nhà máy đóng tàu bên bờ Sông Cấm.
Tính ra cả xứ Bắc Kỳ, Giang Hải Luân Thuyền Bạch Thái Cty có tới 1415 người làm, quản lý Tây và Ta, vận hành 25 con tàu khắp Bắc Kỳ, vừa hạ thuỷ tàu Bình Chuẩn chạy tuyến Bắc Nam ven biển, các tàu vận tốc trung bình 8 hải lý/một giờ, tổng các tàu có đầy đủ số liệu, tên tàu cụ thể phục vụ 6.643 hành khách, những người chủ chốt làm đại diện là người Việt nam ta cả như ông Lã Quý Chấn, đại diện Công Ty ở Nam Định, ông Nguyễn Văn Thịnh đại diện tại Hà Nội, ông Nguyễn Văn Phúc, chủ trì coi nhà máy tại Hải Phòng, là kiến trúc sư trưởng, thiết kế, đóng mới tàu Bình Chuẩn lừng danh, và sáng tạo nối dài các tàu.
Con người cụ là doanh chủ Việt Nam có văn hoá, có tâm yêu thương, trí tuệ, có tư tưởng và lòng bao dung. Bởi vì “nhân tài” có năng lực, có mong muốn, cam kết và phù hợp với doanh nghiệp được thoả sức vẫy vùng khi được tin tưởng trao nguyền, người tài là tài sản vốn quý nhất của doanh nghiệp là những người tài năng, có đam mê, có ý chí mạnh mẽ; muốn đứng đầu những người này thì người doanh chủ phải có tâm, tầm, tài trí, dũng, công minh, liêm chính, có tố chất lãnh đạo rất cao, có năng lực dẫn dắt rất “giỏi” và tầm nhìn xa trông rộng thu phục nhân tâm, kinh doanh chính đạo cuộc đời, ngoài lợi nhuận sự thịnh vượng tài chính còn là tinh thần dân tộc lớn lao cao cả hơn lợi nhuận.
Vẫn theo cụ Phạm Quỳnh báo Nam Phong vào thời điểm năm 1919, Bạch Thái công ty đã sở hữu 25 tàu lớn nhỏ, chạy trên khắp các sông ở Bắc Kì và Trung Kì, ngoài ra công ty còn có 20 chiếc sà lan. Mỗi năm công ty chạy khoảng 5.000 chuyến khứ hồi, 17 tuyến tàu ngược xuôi ngọn nguồn các con sông Bắc Kỳ, với 1,5 triệu lượt hành khách và 15 vạn tấn hàng hoá. Công ty của Bạch Thái Bưởi đã tạo việc làm cho 1.415 người.
Bài báo kết luận: “Chắc chắn sau này có lẽ còn nhiều người kỳ tài, kiệt xuất hơn ông nữa, nhưng hiện nay thời ông cũng đã đáng làm một cái gương chung cho cả thương giới nước ta vậy. Ông thật là làm vẻ vang cho giống nòi ta và rửa được cho ta cái tiếng rằng dân nước An Nam không có tư cách làm được sự buôn bán to. Ước gì trong nước được răm người như ông, thì cái vấn đề chấn chỉnh thương trường lo gì mà chẳng giải quyết được”.
Doanh chủ Bạch Thái Bưởi có những phẩm chất lãnh đạo kỳ tài, triết lý kinh doanh nhân bản, văn hoá doanh tự nhiên như vốn có, nghệ thuật dụng nhân như dụng mộc, tinh thần kiên tâm, kiên định và kiên cường vượt nghịch cảnh, trên hết là khát vọng độc lập, thống nhất nước nhà bằng dân quốc phú cường. Ngay thời bấy giờ, tài kinh doanh, quản trị người tài, dùng uy tín cá nhân và ảnh hưởng tầm quốc gia dân tộc, thu hút nhân tài cả Tây và Ta chia sẻ giá trị văn hoá doanh nghiệp chân thật tự nhiên, cho thấy khả năng dùng người giỏi, sức mạnh dân tộc trong cạnh tranh phi thị trường, văn hoá soi đường doanh chủ minh doanh, con người là vốn quý của doanh nghiệp và kinh doanh dựa vào con người, đồng bào mình ủng hộ sẽ thắng.
Ngày nay kinh doanh hiện đại mới chú trọng nhiều đến văn hoá doanh nghiệp, kinh doanh bền vững ESG, trải nghiệm nhân hạnh phúc, lấy khách hàng làm trung tâm để thoả mãn họ trên từng điểm chạm của trải nghiệm. Kinh doanh tử tế từ tâm, phụng sự đồng bào. Văn hoá kinh doanh có tinh thần doanh chủ văn hoá, tinh thần dân tộc, có đạo kinh doanh riêng, có bản sắc và sự tự hào doanh chủ và nhân viên.
Văn hoá doanh nghiệp có phần hữu hình, vô hình và phần giá trị chia sẻ ấy là giá trị cốt lõi, có tầm nhìn, sứ mệnh, con đường riêng khác biệt hoá để dẫn dắt doanh nghiệp ra biển lớn, cộng sự, tổ chức, đồng bào tới thành công và hạnh phúc bằng tinh thần quý tộc Việt : thành tín, đạo nghĩa và trách nhiệm. Sứ mệnh lớn nhất của doanh chủ hay đạo kinh doanh tốt đẹp đó là sứ mệnh phụng sự vị nhân sinh vì đồng bào, cạnh tranh tới thắng tư sản mại bản người Hoa có tiền và người Pháp có quyền và “dân quốc phú cường giành độc lập.”
Văn hoá doanh nghiệp cụ Bạch Thái Bưởi chính là kinh doanh tử tế, vương đạo cuộc đời doanh chủ, chú trọng trải nghiệm khách hàng nội bộ, đoàn kết nghìn người như một, văn hoá doanh nghiệp mạnh, uy tín nhân hiệu và thương hiệu tàu Bưởi, thoả mãn khách hàng bên ngoài doanh nghiệp, thậm chí vượt mong đợi như giải trí trên tàu để tạo tạo marketing truyền miệng cả nước là bí mật thành công kinh doanh cụ hồi đầu thế kỷ 20.
Khi nhận định về cụ, hội Khai Trí Tiến Đức cho rằng: Cụ là một bậc vĩ nhân đất Bắc, một bậc trượng phu nơi thương trường mà cuộc đời của cụ đáng phô bầy cho quốc dân, sự nghiệp của Cụ đáng làm gương cho các nhà buôn bán noi theo. Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố trong Hội truyền bá chữ quốc ngữ viết về Bạch Thái Bưởi trong tạp chí Đông Thanh: Bậc anh hùng kinh tế thứ nhất trong kinh tế giới nước nhà
“Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường tứ Bưởi” tuy chỉ xếp thứ 4 danh sách bốn người giàu có nhất Việt Nam vào những năm đầu của thế kỷ 20 nhưng doanh nhân Bạch Thái Bưởi lại được nhiều thế hệ người Việt ca tụng như một tấm gương khởi nghiệp thành công từ nghịch cảnh, quản trị nhiều doanh nghiệp chi nhánh mà giờ đây gọi là tập đoàn, nhờ văn hoá doan nghiệp, ý chí doanh chủ, tinh thần dân tộc của một quý tộc Việt.
Tôi cũng cũng nghiệp học quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp từ nhỏ tới lớn và rất chú trọng văn hoá doanh nghiệp ngay từ lúc khởi nghiệp, những khi tìm hiểu và nghiên cứu về đạo kinh doanh của cụ Bạch Thái Bưởi thì tôi thấy rằng ngay từ thời loạn lạc, cạnh tranh khốc liệt, bị tư sản mại bản chèn ép tư sản bản địa, cụ Bạch Thái Bưởi đã là bậc thầy về quản trị tài năng và văn hoá doanh nghiệp một cách chân thật, tự nhiên xuất chúng như bản thân uy tín thương hiệu mà quản trị hiện đại giờ đây mới nói tới.
Xây dựng bản sắc văn hoá vững mạnh, doanh nghiệp hùng mạnh. Thành viên công ty làm việc hiệu suất cao dựa vào kết quả, xây dựng môi trường làm việc hạnh phúc và phát triển hệ quản trị bền vững. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp mạnh tạo niềm tin cho khách hàng, tạo dựng đoàn kết, gắn bó đội ngũ, tạo thói quen tốt cho nhân viên, nâng cao năng xuất, chất lượng hiệu quả công việc. Duy trì và lan toản văn hoá doanh nghiệp, phát triển bền vững.
Cụ thể là văn hoá doanh nghiệp hữu hình là logo dễ nhận biết nhất là cờ vàng mỏ neo, ba sao, và khẩu hiệu “Người Ta đi tàu Ta”, “Người Việt đi tàu Việt”, nhà máy bên bờ Sông cấm, các văn phòng, biển hiệu, đồng phục, mỹ thuật tàu thuyền của 30 con tàu ngược xuôi các con sông Bắc Kỳ và đình đám là hạ thuỷ tàu Bình Chuẩn năm 1919 và cập cảng Sài Gòn năm 1920, cùng tàu Sông Giang, Việt Đăng, ba tàu chạy ven bể Đông Dương.
Văn hoá hữu hình là tinh thần tự tôn dân tộc, phụng sự đồng bào, “người Việt Nam giúp người Việt Nam”. Sứ mệnh kinh doanh Giang Hải Luân Thuyền Bạch Thái Công Ty từ sông ra biển lớn, từ Nam Định ra Hải Phòng lập mua nhà máy đóng tàu bên bờ Sông Cấm, giống ý nghĩa nhận diện thương hiệu cờ vàng, mỏ neo, ba sao tượng trưng cho người Việt chung nhau máu đỏ, da vàng, ba miền phải thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam, và độc lập khỏi Pháp, mỏ neo là nghề kinh doanh chính, vận tải thuỷ, giúp giao thương buôn bán kinh doanh vùng miền thuận lợi.
Bình Chuẩn tức bình đẳng “không trọng nông, ức thương”, nội thương và ngoại thương được thúc đẩy mạnh mẽ, “phi thương bất phú”, tiếp tục chính sách ty Bình Chuẩn từ thời nhà nho cấp tiến Đặng Huy Trứ, triều Nguyễn, để “dân quốc phú cường” (dân giầu nước mạnh) đúng như ý nghĩa sâu xa tên tàu Bình Chuẩn. Muốn vậy phải có tầng lớp quý tộc đủ mạnh khẳng định tâm tài người Việt, kêu gọi đồng bào ủng hộ, giúp sức bằng bỏ tàu Tây, Tàu, đi tàu Ta.
Tư tưởng xuyên suốt trong văn hóa kinh doanh là dân quốc phú cường giành lại độc lập; thức tỉnh mở mang dân trí, đổi mới văn hóa; đua tranh với tư bản nước ngoài, khẳng định vị thế của doanh nhân Việt Nam. Ngắn gọn có thể thấy những bài học kinh doanh của cụ như dám đi bằng đôi chân của mình, dám tận dụng thời cơ, dám tin người, dám tiếp thu tân thư, dám vận dụng tinh thần yêu nước, dám cạnh tranh đến cùng, dám sáng tạo, dám mở rộng thị trường, dám đi lại từ đầu.
Tinh thần cụ Bưởi là hiện thân của tinh thần quý tộc cao quý. Cụ ảnh hưởng của Nho giáo, ngũ thường: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, nhưng lại sớm tiếp cận văn minh Pháp. Nhưng cụ vẫn là người Việt Nam. Kinh doanh trong nghịch cảnh, vượt nghịch cảnh bằng văn hoá doanh nghiệp, trọng dụng nhân tài. Cái bài học hay là cụ Bạch Thái Bưởi kế thừa tinh hoa của văn minh nhân loại, đóng tàu Tây, phát huy tinh thần dân tộc Việt Nam ta, để làm bản sắc riêng cho doanh chủ tinh thần quý tộc Việt. Cụ được cả hai vua triều Nguyễn là Khải Định và cựu hoàng Bảo Đại ban thưởng cho cụ Bạch Thái Bưởi vì tinh thần thành tín, đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm. www.lux-cruises.com
Về doanh chủ Phạm Hà
Ông Phạm Hà là Chủ tịch kiêm CEO LuxGroup và là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực du lịch sang trọng. Ngoài lĩnh vực kinh doanh, ông còn là một người say mê sưu tập tranh, đồ cổ, viết báo về thương hiệu, kinh tế, quản trị kinh doanh và sách về di sản văn hóa, lịch sử và mỹ thuật
Con người văn hoá và lòng biết ơn trong nền kinh tế cảm ơn.
Hôm nay 1 tháng 6 năm 2023, một chặng đường mới sau tái cấu trúc các thương hiệu, dưới một mái nhà chung LuxGroup và chúng ta cất cánh bằng nội địa và quốc tế. Cty lần đầu tiên được cấp giấy phép lữ hành quốc tế Outbound, đưa khách du lịch Việt Nam ra nước ngoài.
Nhân ngồi viết bài hệ thống hoá về văn hoá doanh nghiệp, với 4 trụ cột con đường văn hoá, tư tưởng văn hoá, không gian văn hoá và con người văn hoá. Vậy con người văn hoá là thế nào trong doanh nghiệp có văn hoá, ấy là con người có tâm yêu thương, có trí tuệ, có giá trị và có lòng biết ơn.
Bàn về lòng biết ơn qua nghịch cảnh cá nhân tôi biết ơn thần phật, tổ tiên, gia đình, chính phủ, khách hàng, đối tác, ân nhân đã giúp đỡ, kể cả những nghịch cảnh dậy cho nhiều bài học, những người đã quay lưng lại với tôi, thêm biết ơn những người nhà luxer cùng chèo lái con tàu LuxGroup trong bão. Thời gian chữa lành cho thân tâm và trí, văn hoá con người, doanh nghiệp là vốn quý, một chặng đường mới mang lại hạnh phúc.
01. Xin gửi lòng biết ơn đến Thần, Phật, Tổ tiên..: Người đã cho nạn covid Vũ Hán được hạn chế lại, để chúng con được quay trở lại với công việc, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống.
02. Biết ơn Chính phủ, Nhà nước và các tổ chức khác trong nước và trên thế giới có những giải pháp kịp thời cho dân để tìm kế sinh nhai.
03. Biết ơn đến Quý khách hàng đã trở lại, đã sử dụng dịch vụ của chúng tôi, để cho chúng tôi trở lại với công việc yêu quý của mình: Ngành dịch vụ, phục vụ khách hàng. Từ đó, chúng tôi có thu nhập, có tiền để nuôi sống bản thân, gia đình, lo cho anh em công ty… và có tiền trả nợ bank, các đối tác và những người thân mà chúng tôi đã vay mượn trước đó.
04. Biết ơn đến nghịch cảnh đã cho chúng tôi hiểu được những giá trị tuyệt vời của cuộc sống này: Biết trân quý, yêu thương và bỏ đi những thứ danh hão, hư vô, vô vị…
05. Biết ơn đến các nhà cung cấp là những nhà hàng, khách sạn, xe, điểm đến, những Mạnh Thường Quân, khách hàng…. Luôn hỗ trợ và giúp đỡ tận tình, giúp chúng tôi vượt qua những nghịch cảnh.
06. Biết ơn đến luxers các tí hon vĩ đại #luxgroup cùng chung sức chèo lái, làm việc, để đạt hiệu quả tốt hơn trong công việc, từ đó được khách hàng THƯƠNG, để chúng tôi có thêm niềm tin, tình yêu nghề và gắn bó với nghề dịch vụ khách hàng.
07. Biết ơn đến gia đình nhỏ, gia đình to, những người anh em thân yêu, những người bạn …đã luôn giúp đỡ về tiền tài và động viên tinh thần trong những lúc khó khăn nhất.
08. Biết ơn đến những người đã quay lưng, đã bỏ đi, đã từ chối…vì nhờ họ, chúng tôi mạnh mẽ hơn và luôn nổ lực làm mới mình, tốt hơn ngày hôm qua.
Phía trước là con đường dài, sẽ có thuận lợi và khó khăn đi cùng. Song vì thế, chúng tôi không ngừng học tập, trải nghiệm từng ngày để làm mới bản thân mình trở nên xuất sắc hơn so với quá khứ là ngày hôm qua.
“Đường dài mới biết ngựa hay”, “Yêu nghề, nghề không phụ mình”. Chúng tôi luôn tâm niệm như vậy. Vẫn còn đó là những khó khăn, vướng mắc nhưng rồi mọi thứ sẽ dần được giải quyết theo cách tốt hơn. Chúng tôi tin là như vậy.
Chào mừng trở lại với nghề du lịch, hỡi anh em đồng nghiệp. Giờ, hãy cày cật lực đi, hãy tích luỹ, hãy trân trọng và biết ơn những gì đã có và đang có. Cũng có thể, thời gian sắp tới sẽ khó khăn hơn, nhưng nếu biết trước, hãy chuẩn bị những giải pháp tốt nhất cho những rủi ro phía trước. Dẫu biết rằng, chúng ta, ai cũng hi vọng có tương lai tốt đẹp hơn.
Trân trọng và biết ơn cuộc sống này. Hạnh phúc khi có việc để làm, có gia đình để về, có mục tiêu để sống tốt hơn. Và hãy chuẩn bị cho những điều thuận lợi và những rủi ro phía trước để không còn “như ngày xưa ta dại khờ”.
“Think different. Stay hungry, stay foolish”. (Hãy cứ ngây ngô và dại khờ vì cuộc sống là sự trải nghiệm- để khi ta nhắm mắt lìa đời, ta hân hoan vì được sống cả đời cho những điều tốt đẹp vì đã mang lại hạnh phúc).
Ông Phạm Hà là Chủ tịch kiêm CEO Lux Group và là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực du lịch sang trọng. Ngoài lĩnh vực kinh doanh, ông còn là một người say mê sưu tập tranh, đồ cổ, viết báo về thương hiệu, kinh tế, quản trị kinh doanh và sách về di sản văn hóa, lịch sử và mỹ thuật
Văn hóa là thế mạnh đặc biệt nhất của du lịch Việt Nam
Văn hóa chính là điểm mạnh nhất của ngành du lịch Việt Nam; là động cơ thúc đẩy việc đi du lịch của khách, là nguồn lực quan trọng nhất mang tính quyết định sự phát triển bền vững của du lịch.
Đây là khẳng định của nhiều chuyên gia tại Diễn đàn Du lịch toàn quốc năm 2023 với chủ đề “Phát triển du lịch văn hóa Việt Nam” được Hiệp hội Du lịch Việt Nam tổ chức sáng nay (14/4) tại Hà Nội.
Tiềm năng to lớn từ di sản văn hóa
Việt Nam được đánh giá là quốc gia tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đặc sắc. Theo Cục Di sản Văn hóa, hiện Việt Nam có 28 di sản văn hóa được UNESCO công nhận, trong đó có 8 di sản thế giới, 13 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại và một số di sản cần được bảo vệ khẩn cấp. Cả nước còn có 3.560 di vật được xếp hạng quốc gia và 215 bảo vật quốc gia. Đó là một gia tài quý giá được tạo dựng qua nhiều thế kỷ và cần được bảo vệ nghiêm ngặt.
Ông Vũ Văn Tuyên, Tổng Giám đốc Travelogy khẳng định, các sản phẩm du lịch văn hóa của nước ta thời gian qua là sức hút mạnh mẽ đối với khách du lịch, tạo nên lợi thế cạnh tranh cho ngành du lịch của nước nhà. Các doanh nghiệp du lịch đã biết khai thác và phát huy hiệu quả nhiều giá trị văn hóa thành sản phẩm du lịch để thu hút khách du lịch.
Văn hóa là thế mạnh đặc biệt nhất của du lịch Việt Nam
“Có thể nói, thành công trong tăng trưởng và phát triển ngành du lịch trong ba mươi năm qua có sự đóng góp to lớn của các sản phẩm du lịch văn hóa” – ông Tuyên nói.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của di sản văn hóa trong phát triển du lịch, ông Phạm Hà, Chủ tịch kiêm CEO LuxGroup chia sẻ, văn hóa là thế mạnh đặc biệt nhất của du lịch Việt Nam. “100% khách Tây của chúng tôi đều nói rằng, họ rất thích thú với văn hóa Việt Nam. Ở mỗi chuyến đi, sau tất cả, điều đọng lại trong mỗi du khách phải là câu chuyện gì. Do đó, để du khách chạm được vào văn hóa Việt Nam thì phải gắn kết di sản với du lịch”- ông Hà nói.
Ông Phạm Hà cũng đã chia sẻ câu chuyện đưa di sản vào du lịch của LuxGroup bằng du thuyền Bình Chuẩn: Du thuyền Bình Chuẩn đã kể câu chuyện văn hóa của Việt Nam, làm sống dậy quá khứ và đặc biệt tôn vinh những giá trị lịch sử, di sản, văn hoá, nghệ thuật, ẩm thực…Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Nhiều du khách thực sự ấn tượng với đêm diễn Heritage by night (Chạm vào di sản) vì các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống đã đưa họ trở lại với các giá trị văn hóa dân gian Việt Nam. Với sân khấu thực cảnh được đầu tư dàn dựng dành riêng cho du thuyền Bình Chuẩn, hình ảnh không gian làng quê Bắc Bộ yên bình, hiền hòa nhưng cũng rất xôn xao, náo nhiệt đã được tái hiện trọn vẹn qua các phân đoạn “Chợ quê”, “Ngày mùa” và “Hội làng”.
“Thậm chí, chúng tôi đưa cả võ cổ truyền VOVINAM vào tour du lịch. Dấu ấn Việt trở thành ấn tượng khó phải đối với những ai đến với Bình Chuẩn. Kể những câu chuyện văn hóa về lịch sử – đó là cách làm khác biệt, để chúng đưa du khách “chạm” được vào di sản” – CEO này chia sẻ thêm.